Announcement

Collapse
No announcement yet.

Những Việc Hơi Xưa Về Vãng Long

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Việc Hơi Xưa Về Vãng Long

    Những Việc Hơi Xưa Về Vãng Long

    Phần 1

    Trước 30/4/75 tôi có mời anh bạn thân gốc người miền Bắc về quê chơi. Lần đầu đến Vĩnh Long anh bạn có vẻ ngạc nhiên khi nghe một số địa danh: xã Tân “Ngãi”, cầu “Thiềng” Đức, hay chợ Phú “Quới”… Tôi đã nói với bạn ấy: “Nếu không có Cách mạng Tháng 8/1945 thì bây giờ không còn chữ Vĩnh Long để gọi đâu! Người lớn tuổi như bà ngoại tôi đã gọi là ‘Vãng’ Long vì sợ phạm huý ông vua có tên Vĩnh Thụy!”

    Bến Xe Đi Vĩnh Long

    Những năm thập niên 1960 ở Sài Gòn bến xe đi miền Tây gọi là bến xe Pétrus Ký, (bến xe này đã giải toả từ lâu, nay là đường Lê Hồng Phong), và xe đi Vĩnh Long đậu ngay trước nhà máy giày Bata. Để đi VL, khách có 2 hãng xe để chọn lựa, xe Nhan Nhựt (lại kỵ huý không biết tên của ai?) và xe Hiệp Thành. Tôi thích đi xe Nhan Nhựt hơn vì tài xế hãng này lái xe nhanh và hãng thường hay trúng thầu chở thư cho bưu điện nên xe được ưu tiên qua bắc Mỹ Thuận. Giữa 2 hãng thường xảy ra cạnh tranh, có khi phải giải quyết bằng tay chân, nhưng có những cạnh tranh làm khách đi xe, như tôi, thấy vui vì xe đua nhau chạy, qua mặt nhau, hay những lúc xe phóng nhanh vượt qua dốc cầu bay trên không một đoạn. Lúc ấy người lớn sợ thót ruột (?) còn tôi nhảy cởn lên vì vui (lúc nhỏ đi xe đò tôi không bao giờ ngồi mà đứng suốt lộ trình). Một cách cạnh tranh khá hay khác là họ mướn những người có hoa tay dùng dụng cụ gì đó không phải cọ để vẽ chữ bằng vôi lên kính xe, những chữ ấy phải nói là rất đẹp, rồng bay, phượng múa. Nội dung những chữ được viết chỉ là thông tin về chuyến xe như: “Xe thơ, ưu tiên qua bắc”, “xe chạy suốt”, “tài 1, khởi hành lúc 4 giờ”… Sau này khi đã chuyển về Sài Gòn học, (tôi chỉ học tại trường Tống Phước Hiệp 2 năm, đệ ngũ và đệ tứ) những khi có dịp, nếu là buổi sáng đầu tuần, tôi lại đạp xe chạy ngang bến đi Vĩnh Long quan sát những xe sắp chạy để… hy vọng được thấy mặt những giáo sư dạy ở trường mà tôi đã biết khi thầy, cô đón xe về Vĩnh Long dạy. Tôi chỉ gặp một vài thầy: thầy Di dạy hoá (tôi không học thầy Di, chỉ biết mặt do thường thấy thầy dạy course tại một phòng học của trường Nguyễn Thông, gần chỗ tôi hay đến mướn truyện), và thầy Liêu, dạy hoá cho tôi năm đệ ngũ. (Xin chân thành cám ơn đồng môn viết bài “Áo Trắng Sân Trường” đã nhắc đến tên thầy và giúp tôi nhớ lại. Còn cô dạy Anh văn, thần tượng của học sinh đệ tứ chúng ta thời ấy, thì tôi đã biết nhà.) Ở Vĩnh Long, bến xe nằm ngay góc ngã 3 Cần Thơ, giờ đã giải toả làm ngân hàng.

    Bắc (Phà)

    Trước khi cầu Mỹ Thuận được xây, muốn đến Vĩnh Long phải qua bắc Mỹ Thuận. Vì là phương tiện duy nhất giúp vượt qua sông Tiền nên bắc Mỹ Thuận phải vận chuyển một số lượng xe, người, hàng rất lớn mỗi ngày. Để đáp ứng nhu cầu giao thông, vận chuyển hàng hoá của người dân ngày càng tăng, chính quyền thời ấy đã liên tục nâng cấp, mở rộng đường dẫn xuống bến bắc, làm pon-ton (cầu nổi) mới to, rộng, tiếp nhận được 2 – 3 bắc cùng lúc, cũng như đưa vào sử dụng những chiếc bắc có tải trọng cao. Từ những chiếc bắc 10 (tải trọng 10 tấn), bắc 20 (tải trọng 20 tấn) nhỏ bé ban đầu chỉ chở được một vài chiếc xe, chính quyền đã cho thay thế bằng những chiếc bắc 100, 200 tấn vững chãi, an toàn, bề thế hơn. Tuy nhiên việc qua sông trên bắc vẫn mất nhiều thời gian (trung bình mất hằng giờ) và cũng đã xảy ra nhiều tai nạn thương tâm. Sông Tiền đoạn này chiều rộng chưa đầy kí lô mét, nhưng những khi sóng gió mạnh, bắc to như bắc 200 còn bị gió thổi bạt đi, còn sóng nhồi đến nỗi không cập vào pon-ton để cho xe lên được. Để đảm bảo an toàn mỗi khi xe lên hay xuống bắc, hành khách phải xuống xe, đi bộ. Tuỳ lượng xe bị kẹt ở đầu bến phà nhiều hay ít, hành khách buộc phải đi bộ trên một quảng đường dài hay ngắn. Có nhiều việc đã xảy ra ở 2 đầu bến bắc như lên nhầm xe, không nhớ đã đi chiếc xe nào, lạc mất con… Đường dẫn vào bến bắc do xe nặng chạy quá nhiều nên chỉ sau một thời gian ngắn là bị sụt, lún. Nhân viên Công chánh phải trải đá, đổ nhựa lại những chỗ sụt, lún ấy. Thời đó style của quý bà, quý cô là guốc (gỗ) cao với phần gót kim loại phía sau được bắt vít hay đóng đinh vào thân guốc. Chẳng may bước vào chỗ lún đã được phủ lớp nhựa đường dầy, chiếc guốc có thể kéo lên được nhưng phần gót kim loại sẽ nằm lại vĩnh viễn tại chỗ. Trong trường hợp ấy khổ chủ chỉ có nước lê guốc (không dám bỏ guốc đi chân không vì mặt đường nóng có thể làm phỏng) chân thấp, chân cao đến một cửa tiệm gần đó mua một đôi dép đi tạm, hay đến bên một chiếc xe đò, nhờ anh lơ mở thùng đồ nghề lấy cây kềm bẻ luôn gót của chiếc kia cho đều, dễ đi! Không khí oi bức, nồng nặc mùi khói xe, mùi người, mùi… rác, tiếng còi bắc, tiếng xe chạy trên pon-ton kêu rầm rầm, tiếng máy xe rú khi lên dốc, tiếng hành khách gọi nhau, tiếng rao hàng… tất cả đã tạo nơi tôi hai tâm trạng khác nhau: hồi hộp, náo nức vì sắp về đến Vĩnh Long, và bịn rịn, quyến luyến khi phải trở lại Sài Gòn.

    Bắc Mỹ Thuận ngày nay được thay thế bằng cầu Mỹ Thuận, một công trình giao thông đầy thẩm mỹ, tặng phẩm của nhân dân Úc. Nước ta hiện có nhiều cầu dây văng hiện đại nhưng đẹp nhất, theo tôi, vẫn là cầu Mỹ Thuận.

    Từ Vĩnh Long muốn đi Chợ Lách, sang Bến Tre phải qua bắc Cổ Chiên (Hiện nay bắc này đổi tên thành bắc Đình Khao, tên Cổ Chiên dùng cho một bến bắc khác phía hạ lưu khoảng 5km nối liền Bến Tre và Trà Vinh. Tôi vẫn thắc mắc không lẽ quỹ tên thiếu đến nỗi không có tên để đặt cho một bến bắc mới mà phải lấy tên của một bến bắc đã tồn tại hơn 50 năm đặt? Mà rồi sử dụng được khoảng chục năm thì trên thực tế bến bắc này phải bỏ vì đã xây cầu Măng Thít!). Bắc là một phần của tuyến đường liên tỉnh, ít xe lưu thông nên chính quyền bố trí ở đây, vào những năm thập niên 1960, những chiếc bắc cũ, rất nhỏ có lẽ là bắc 10. Theo tôi nhớ nó giống hệt chiếc bắc được quay trong phim L’Amant (Người Tình). Có một lần tôi theo chú sang Bình Hoà Phước ăn đám giỗ (gia đình bên vợ của chú). Lúc chú cháu chúng tôi qua bắc trở về chợ Vĩnh Long trời đã chiều. Bắc ra đến giữa dòng thì chết máy. Thế là chiếc bắc trôi tự do theo con nước đang ròng ra cửa biển. Trong khi tài công và thợ máy rối rít lo sửa, người biết chuyện và lo xa đang sợ xanh mặt không biết theo đà này bắc sẽ trôi đến đâu, tôi tay nắm chặt can rượu (can rượu của chú, tôi xách hộ, và dù tôi bơi khá giỏi nhưng giữa con sông rộng mênh mông thì có cái gì đó nổi để bám vẫn hơn) nên vẫn đủ bình tĩnh ngồi quan sát cảnh vật: Dòng sông mỗi lúc một rộng, cảnh vật hai bên bờ mỗi lúc một mờ do sương mù bắt đầu lên, gió thổi mạnh, và rồi trăng lên. Hôm ấy có lẽ ngày rầm, hay gần rầm, nên trăng tròn và rất to. Chiếc bắc giờ lắc lư nhiều do sóng mỗi lúc một cao hơn và vẫn trên đường trôi tự do về hướng biển; nỗi lo sợ của mọi người tăng theo chiều rộng của cửa biển ... Sau hơn 15 phút trôi tự do, máy được sửa và hoạt động trở lại. Tài công lập tức cho chạy ngược trở về phía bến Vĩnh Long. Nếu kể cả phần sợ hãi tôi đã có một tour du lịch cửa Cổ Chiên buổi chiều tối cực kỳ hấp dẫn và ấn tượng.

    Bến phà Đình Khao ngày nay hoạt động 24/7 và sử dụng toàn bắc 100. Ai có máu lãng tử có thể đi từ phà Đình Khao lên tp.HCM bằng 3 chặng xe buýt: Bắc Đình Khao - thị xã Trúc Giang (Bến Tre) - thị xã Mỹ Tho – tp.HCM. Tiền vé 3 chặng chỉ tốn 50.000đ (nhưng đi Honda ôm [vì đến tp. HCM trời đã tối, hết xe buýt] về đến nhà tôi ở quận 8 phải tốn 60.000đ!) Hơi mất thời gian đấy nhưng nếu đi vào Tháng Chạp sẽ được ngắm hoa, ngắm cảnh và ngắm người; rất đáng công.

    Cầu

    Tỉnh Vĩnh Long thuộc đồng bằng sông Cửu Long nên sông ngòi chằng chịt, số cầu được xây dựng lên là vô kể. Để biểu lộ khoảng cách giữa hai nơi một số người vẫn diễn tả bằng số cây cầu phải đi qua. Thí dụ như diễn tả đường đến nhà bà nội, tôi vẫn nói: “Nếu đi theo hẻm Lò Rèn từ phía cầu Khưu Văn Ba qua thì phải qua 2 cây cầu đúc, khi qua khỏi thì hỏi phía bên phải nhà bà Bảy.” (Tiếc là căn nhà này nay không còn vì đã bị giải toả để… làm cầu Hưng Đạo Vương.) Anh bạn tôi đã kể trên cũng thắc mắc, “Sao có nhiều cầu tên gọi bắt đầu bằng chữ ‘Cái’ quá, cứ như trong truyện Cây Khế! Nào là Cái Côn, Cái Cam, Cái Cá.” (Cũng may cầu Cái Khế ở tận Cần Thơ, nhưng trên đường Lý Thái Tổ, đoạn giữa hẻm Huyện Cự và hẻm Quận Nghĩa có hẻm Cây Khế!) Anh bạn rất ấn tượng bởi Văn Thánh Miếu, miếu Quốc công. Khi nghe nói đến ở Vĩnh Long có cầu Lầu anh lập tức muốn đi xem cho biết nó “cầu kỳ” ra sao. Sau khi dẫn đi xem tôi lại quên hỏi cảm tưởng của anh bạn về nơi mới được dẫn đến, nhưng cũng may tôi có chút hiểu biết lịch sử nên cũng tạm qua buổi. Rút kinh nghiệm vụ cầu Lầu, tôi thanh minh, thanh nga ngay, “Ở Vĩnh Long còn có cầu Vòng, có nghĩa cây cầu là một phần của đường vòng, đường vành đai. Không phải cầu vồng, arc en ciel gì cả! Còn chợ Lách là một khu vực trù phú, đẹp, sản xuất nhiều trái cây nhưng không liên quan gì đến truyện Đêm Xóm Lách Mịt Mùng của nhà văn Thanh Tâm Tuyền. Cũng may, trên đường về nhà (sau khi đã ghé phố ẩm thực) khi gần đến dốc cầu Lộ tôi chợt nhớ nên chỉ cho anh bạn một con đường có tên nghe thật văn vẻ là đường Cổ Trì, rồi nói tiếp, “mày cứ tự nhiên vào đó khám phá ‘cái Cổ Trì’, tao lên cầu Lộ ngữi tí mùi ngọc lan về đêm.” (Cây ngọc lan đầu cầu Lộ đã bị đốn, xóm nhà ven sông trước rạp Vũ Đông cũng đã giải tỏa để làm đường và bờ kè lên tận cầu Bình Lữ. Trên tuyến đường và bờ kè nầy có trồng nhiều cây ngọc lan, và nhiều cây đã ra hoa.)

    Từ nhỏ tôi vẫn thắc mắc không biết có phải do thiếu gỗ hay sao mà ván gỗ mặt cầu được lót rất thưa, hai thanh ván lót cách nhau hơn cả phân, trẻ em như tôi lúc ấy đi lên cầu chân cứ quéo lại vì sợ lọt, mắt nhìn đăm đăm qua kẽ hở xuống dòng nước chảy cuồn cuộn bên dưới để rồi cất bước không nỗi. Đã thế khi có xe chạy lại có tiếng “rầm, rầm… rầm, rầm”, rồi cây cầu lắc lư… Theo như tôi “thấy”, 2 câu thơ dưới đây diễn tả cực hay tâm trạng của tôi mỗi lần phải đi ngang cầu Thiềng Đức:

    Qua cầu ngả nón trông cầu,

    Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu!


    Tiêu biểu cho loại này là cầu Thiềng Đức, cầu Chợ Lách.

    Cầu Thiềng Đức nay đã được xây lại khang trang, vững chãi. Cách đây 2 năm, lúc tôi đi ngang, cầu Chợ Lách vẫn còn lắc lư. Có người bạn nói nhà nước đã xây cầu Chợ Lách mới, vững chãi và cách đó không xa.

    Cũng là cầu nhưng may mắn ngày nay không còn là “cầu tủm, hay còn gọi cầu cá”. Người mới đến rất ngại khi phải sử dụng phương tiện vệ sinh này, nhưng sử dụng quen lại thấy vui, và khi ngồi sử dụng nghe mát mát. Còn đám con nít thành phố về Vĩnh Long sau khi vượt qua nỗi sợ ban đầu chúng có thể ngồi ở đó cả giờ!

    Những Âm Thanh Chừng Như Đã Mất

    -Tiếng Rao Bánh Tét

    “Tét, te. Tét, te te…” Tiếng rao bánh tét của chú người Hoa rất to, vang xa và ấn tượng. Người mới đến nghe tiếng rao ấy ai cũng thắc mắc không biết chú bán thứ gì, chỉ khi tận mắt chứng kiến thì mới biết. Mà cũng dễ thấy thôi. Có thể chú cũng biết giọng rao hàng “thương hiệu” của mình là rất khó hiểu (hay thậm chí không thể hiểu), mà chiếc xe đạp lại không thể gắn cây bẹo như ở ghe, xuồng, thế là chú treo bánh tét vào mọi nơi có thể được trên chiếc xe: tay lái, sườn xe… Và phải nói chú cực kỳ chịu khó, chạy xe bán khắp mọi hang cùng, ngõ hẻm ở Vĩnh Long. Sau ngày giải phóng do tình trạng xăng dầu khó khăn xe đò, xe hàng rất ít chạy. Để góp phần giải quyết nhu cầu giao thông vận tải của người dân, nhà nước tổ chức cho 2 tàu gỗ chạy song hành và 1 tàu sắt là chiếc Minh Giang chạy hướng ngược lại ở tuyến Vĩnh Long – tp. Hồ Chí Minh. Tại tp. HCM các tàu này đậu ở bến Bạch Đằng, còn ở Vĩnh Long là cầu tàu, gần chợ cá. Sau khi những tàu này chạy đã vài tháng tôi mới hay tin. Thế là tôi lên kế hoạch du ngoạn đường sông theo chiếc Minh Giang cho biết, vì đường từ Vĩnh Long lên tp. HCM rất ngoằn ngoèo, phức tạp, và có đoạn tàu phải chạy ra (ven) biển. Chưa kịp đi tôi lại nghe tin tàu Minh Giang đã vượt biên. Cùng lúc ấy ở chợ Vĩnh Long người ta không còn nghe tiếng rao “tét, te” quen thuộc. Có người biết chuyện nói những người chủ mưu lợi dụng việc có đoạn tàu phải chạy ra biển nên canh cướp tàu, chạy thẳng luôn. Chú bán bánh tét hôm ấy tình cờ đi trên chiếc Minh Giang nên bị cưỡng bức vượt biên. Không biết chiếc tàu sắt nhỏ, cũ kỹ, có chở theo chú bán bánh tét, đi được đến đâu?

    -Tiếng Còi Đò

    Sau tháng Tư 1975, có một lần sau Tết khoảng nửa tháng tôi đáp xe đò về Vĩnh Long, rồi đi xe lôi về thẳng bắc Đình Khao (lúc đó còn gọi là bắc Cổ Chiên; gọi là bắc thật ra nó chỉ là một chiếc tàu gỗ chở được xe nhỏ như xe Lam 3 bánh và vài chục người) để đến nhà chú Năm ở bên kia bắc thuộc địa phận xã Bình Hoà Phước. Tôi đi chuyến xe sớm nên về đến nơi lúc mới hơn 9 giờ. Đường từ bến bắc đi chợ Lách lúc ấy rất ít xe và người đi lại. Nhà chú tôi đây rồi. Cổng rào tre xộc xệch khép hờ. Trước sân, cội mai già trên cành còn đơm nụ, những cánh mai vàng rụng đầy trên mặt đất nổi rêu xanh, chen vào đó là những khóm ngò gai tạo thành những vòng tròn. Khuất phía sau là căn nhà lá đơn sơ trông có vẻ như sắp bị cây đào tiên, mọc bên hông nhà, và dây gấc leo bên trên đè bẹp. Con chó mực già lông còi cọc mệt mỏi sủa vài tiếng chiếu lệ khi nghe có tiếng động ở cửa rào. Nghe tiếng chó sủa, chú tôi bước ra hiên nhìn, mắt hấp him vì ánh nắng. Lúc ấy, tôi chỉ muốn thời gian và không gian ngừng lại để cảnh này giữ mãi, hay cho tôi được đắm mình, được tan vào khung cảnh thân thương.

    Sau buổi cơm chiều có uống chút rượu tôi giăng mùng trên bộ ngựa đặt ở nhà trước ngủ sớm. Gần sáng tiếng còi đò “u, u...” làm tôi thức giấc. Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn trứng vịt, tôi thấy chú đang ngồi bên bàn nước đặt giữa nhà uống trà. Thấy mùng lay động chú hỏi:

    _ Lạ chỗ, không ngủ được hả cháu?

    _ Dạ không phải. Chắc do cháu ngủ đã nhiều rồi. À, tiếng còi đò nào vậy chú?

    _ Đó là tiếng còi đò chợ (Vĩnh Long), vì bây giờ đã gần bốn giờ sáng rồi. Đò đi Đồng Phú và đò đi Hoà Khánh phải muộn hơn và tiếng còi cũng khác. Trầm và dài là tiếng còi đò…

    Tôi lại lơ mơ chìm vào giấc ngủ nhưng tai vẫn nghe văng vẳng tiếng còi đò.

    Bán Bao Bụng

    Đây là cách bán độc đáo của những vườn mận ở Phước Hậu và những rẫy dưa gang ở khỏi cầu Tân Hữu, đường đi Cần Thơ. Khi có khách đến, chủ vườn đếm số người và coi tướng người (ăn được nhiều hay ít) để ra giá tiền. Khi 2 bên đã thoả thuận về giá, chủ vườn mang cho khách một cây lồng để hái và một tô muối ớt. Khách tha hồ hái mận ăn, nhưng nếu muốn mang về phải được sự đồng ý của chủ, và muốn ở trong vườn chơi bao lâu tuỳ thích (dĩ nhiên là không cho qua đêm). Còn ở rẫy dưa gang, chủ rẫy đếm số người rồi nhân ra thành tiền, và thường họ chỉ cho khách vào rẫy ăn dưa sau khi đã thu hoạch đợt dưa chính. Để đối phó khách cũng quan sát kỹ rẫy dưa rồi mới chọn vào. Thoả thuận xong chủ rẫy đưa cho khách một tờ giấy to (thường là tờ báo) dùng để đặt dưa lên đó khi ăn và một gói giấy dầu màu vàng chứa số thẻ đường tương ứng với số người trả tiền. Chủ rẫy cũng tha thiết kêu gọi mọi người đi vào rẫy cho khéo, đừng đạp lên dây dưa và nhất là tránh phí phạm; chỉ hái trái dưa nào thật sự muốn ăn, và chỉ hái vừa đủ ăn, đừng bỏ phí! Mùa dưa gang chín khu này rất vui. Tấp nập nhất là vào buổi chiều khi: Ven lề đường người dân bày dưa thành đống để bán, xe đạp, xe gắn máy của khách dựng đầy ven đường, xe hàng lên, xuống dưa... Còn người ăn dưa tại chỗ chỉ đến khi mặt trời đã xế (để tránh nắng nóng) và thường đi theo nhóm hai người trở lên. Sau một hồi lội trong ruộng dưa, chọn được những trái dưa vừa ý, cả nhóm sẽ quây quần lại, tập trung những trái dưa trên tờ báo rồi bẻ dưa ra, mỗi người một tay cầm thẻ đường, tay kia cầm miếng dưa luân phiên đưa lên miệng… cắn. Ai không tìm được trái dưa vừa ý cũng không sao (vì bán bao bụng mà), người ấy có thể ra lề đường đến đống dưa của chủ rẫy đang bày bán chọn một vài trái mang vào ăn. Cùng với tiếng trả giá, tiếng cười đùa, tiếng reo mừng khi phát hiện một trái dưa to, đẹp, hay vừa ý là cảnh người người đi đi lại lại, người lui cui vạch lá tìm… dưa, chỗ này nhóm đông đang ngồi ăn cười nói ồn ào, góc khuất nọ một cặp ăn dưa trong yên tĩnh vì còn đang bận trao cho nhau những cái nhìn đầy ý nghĩa... Dù chủ rẫy đã rất cẩn thận hướng dẫn, thậm chí năn nỉ khách, nhưng chỉ sau một vài hôm là rẫy dưa tan hoang. Khách đến những ngày sau chỉ có nước nhận tờ báo và gói đường rồi bưng một vài trái dưa ra một góc nào đó ngồi ăn… cho đến no; theo đúng tinh thần bán bao bụng! Lúc đó những ai ham vui, những đôi muốn có sự yên tĩnh phải chịu khó lội vào những rẫy dưa sâu bên trong.

    Cách bán bao bụng, theo tôi nghĩ, giống như cách bán ở nhà hàng buffet. Phần chi tiết có thể khác nhưng cốt lõi vẫn thế.

    Nguyễn Hoàng Long, 72KNN


  • #2
    Nhớ....!!!!

    :coffee:

    Comment


    • #3


      Những “Hình” Hơi Xưa Về Vãng Long trong video clip trên youtube:


      Tình thân,

      4


      Best wishes,

      Comment


      • #4
        Lời tác giả : Những Việc Hơi Xưa Về Vãng Long. Truyện nầy có phần 3. Mình muốn giới thiệu quê hương mình nên viết có hơi dài. Có lẽ từ đây về sau mình sẽ gửi bài theo cách nầy vì khả năng thẩm mỹ, khả năng sử dụng vi tính của mình còn hạn chế.

        Những Việc Hơi Xưa Về Vãng Long( tiếp theo)



        Phần 2


        Nhà Cửa?

        Lúc nhỏ tôi rất ngại khi phải ngủ đêm nhà bà con ở vùng nông thôn Vĩnh Long. Nhà bà con của tôi cũng vào hàng khá giả: Ba gian, hai chái khang trang, nền lót gạch tàu đỏ chói, bàn thờ, tủ thờ, liễn, câu đối bằng gỗ quý cẩn xà cừ, ngạch cửa cao cả gang tay, ai vô ý đi vào nhà không nhấc chân cao là bị vấp, thế mà nhà lại không có… cánh cửa.

        Là khách quý nên tối đó tôi được chủ nhà ưu ái giăng mùng cho ngủ trên bộ ngựa gõ nhà trước. Thế là suốt đêm đó tôi không ngủ vì bận… trông nhà, trông (ra) cửa! Mà nhà kiểu như của người thân tôi vốn không hiếm ở vùng nông thôn VL. Như vậy là từ kép “nhà cửa” không được áp dụng ở nông thôn VL, vì có nhà nhưng không có (cánh) cửa.

        Kê Tán :

        Các bạn nữ có chiều cao khiêm tốn thường mang guốc, giày cao gót. Có trường hợp gót guốc, gót giày cao đến 10, 15cm. Người lớn tuổi thấy cảnh này sẽ nói: “Con nhỏ này kê tán cao cả tấc!” Nói như vậy là khôi hài vì cơ bản tán là khối đá xanh có tiết diện đáy hình vuông, cạnh dài khoảng 30 – 40cm, cao 10 – 15cm dùng để kê cột nhà bên trên.

        Ở miền Nam do ít khi có gió mạnh hay bão và trong đất nhiều mối có thể ăn rỗng cột gỗ nên khi cất nhà người ta không trồng cột xuống đất mà kê cột trên tán. Theo tôi biết đây là kiểu cất nhà chỉ có ở miền Nam, các vùng miền khác không có.

        Có thể người dân miền Nam làm theo lời khuyên của ông bà: “Khôn cất trại, dại cất nhà.”, do chiến tranh nhà cửa chỉ nên cất tạm bợ, cột gỗ, vách tre, mái lá đơn sơ ( nhà đá, nhà đạp) hay kê trên tán để có chiến sự thì dễ dàng dỡ sườn nhà xuống dời đi, hay thậm chí bỏ đi lánh nạn mà không hối tiếc nhà (không có) cửa. Việc này, theo tôi đã có từ thời chúa Nguyễn bị vua Lê vào miền Nam truy sát cho đến nay. Cũng có lẽ vì thế bộ mặt nông thôn ở Vĩnh Long, cũng như phần lớn miền Nam, trước đây không được khang trang lắm.

        Theo tôi biết, trước đây để cất một căn nhà khang trang đúng mức, gia chủ phải chuẩn bị trước 5 năm là ít, nếu không tính về mặt tài chính. Đầu tiên phải đào một đoạn mương để ngâm gỗ, tre, sắt. Các vật liệu này phải vùi hẵn xuống bùn. Theo những người có kinh nghiệm sau mấy năm ngâm như vậy, gỗ vớt lên sau khi cưa, xẻ sẽ không bị nhót, vênh, còn sắt vùi xuống bùn ngâm trong điều kiện yếm khí chẳng những không hoen, rĩ mà càng cứng chắc, “khi cưa ra lõi sắt sẽ xanh rì”, sử dụng lâu bền. Gỗ phải mua từ các bè bên Kampuchia chuyền về, còn đá xanh phải chờ ghe thương hồ chở từ Biên Hòa xuống bán . Vì cất nhà công phu như thế nên dân Vĩnh Long vẫn khen giàu bằng câu: “Nhà nền đúc cao tới ngực.”

        Tiện Tay Hái Một Quả Chanh :

        Ở nông thôn, người dân thường làm hàng rào bằng những loại cây sống: xương rồng, chanh, đinh lăng… Chanh được trồng làm ranh nhiều nhất vì dễ nhân giống (chỉ cần cắt cành già cắm xuống đất là mọc cây), và có nhiều gai (đâm những ai vô tình vi phạm). Tôi còn nhớ khi làm “tiểu đồng” theo bà nội đi đám tiệc ở Bình Hòa Phước, trên đường về lúc đi men theo hàng cây chanh trồng làm rào, lúc nào thuận tay hay trái to hấp dẫn, tôi mới hái thế mà khi đến bến phà Cổ Chiên túi quần của tôi đã đầy chanh.

        Một Chục Là 12, 14, 16 Hay 18?

        Đây là cách buôn bán của người dân Vĩnh Long, hay nói chung là của người dân miền đồng bằng sông Cửu Long. Thời xưa việc mua bán ít dùng đến cân mà thường là đếm chục, hay thiên, nhất là khi mua bán trái cây. Một chục sẽ có “đầu”, mà đã có “đầu” thì dứt khoác phải có “đuôi”, như vậy chục không phải là 10 mà tùy loại, tùy nơi, tùy hợp đồng “miệng”, sẽ là 12, 14, 16 hay 18. Càng về phía Nam một chục càng nhiều. Tôi nghe nói miệt Long Xuyên, Châu Đốc có chục đến 20 hay 22!

        À, còn thiên ở đây lại có nghĩa là 10 chục, không phải 1.000. Có thể chữ bách (100) là tên của một ông vua hay ông lớn nào đó, và vì nó đồng âm với “đại thụ” này nên người dân sợ phạm húy, không dám dùng đơn vị đếm này! Mà cũng lạ, chữ thiên có nghĩa 10 chục lại được sử dụng rộng rãi, và cho đến hiện nay một số nơi, một số người vẫn còn dùng, thế mà người ta không sợ phạm húy “ông trên cả lớn” có tên đồng âm. Có lẽ ông trời rộng lượng, không chấp nhất những việc nhỏ nhặt hay cho là “không biết thì không có tội” nên người ta không sợ?

        Mùa Nhận Dưa Mắm:

        Món ăn người Việt xa quê hương luôn nhớ đến là mắm. Ở chợ Vĩnh Long một thương hiệu mắm nổi tiếng mấy mươi năm nay là “mắm bà Méo”. Thật sự người dân dùng chữ “mắm bà Méo”là để nói cho gọn chứ không hàm ý giai thoại đi kèm như trường hợp nhãn hiệu rượu vang nổi tiếng của Pháp là rượu vang con mèo, rượu vang thủy thủ hay rượu vang ông già. Lò mắm bà Méo ở gần cầu Lầu.

        Tôi là người Việt rặc, chỉ quanh quẩn sống ở miền Nam, chưa bao giờ ra nước ngoài hay sống ở nước ngoài nhưng thú thật tôi lại không biết ăn mắm, trừ món dưa mắm có trộn thịt ba chỉ luộc, sắc mỏng để ăn với cơm, và dưa mắm, trứng vịt muối để ăn cháo trắng, mà phải là dưa mắm mua của lò bà Méo mới ngon. Dưa mắm có thể làm từ đu đủ, dưa gang hay dưa leo. Nếu làm từ dưa gang hay dưa leo phải loại bỏ phần ruột và hột, chỉ sử dụng phần thịt. Thế là vào mùa nhận dưa mắm, nếu nước lớn, cả một đoạn sông chảy dọc theo đường Văn Thánh từ cầu Lầu đến chợ Cua trôi trắng ruột dưa. Sau mùa (nhận) dưa mắm là mùa dưa gang cầu Tân Hữu.

        Bánh Xèo Nhân Thịt Vịt:

        Có một lần tôi theo chú Năm qua Hòa Ninh, quê vợ của chú chơi. Chúng tôi ghé nhà cậu Tám, em vợ của chú. Thấy chú cháu chúng tôi đến cậu Tám niềm nở tiếp đón. Cậu Tám vui vẻ nói với mợ, “Bà làm cái gì đó ngon ngon đãi thằng cháu mới từ thành phố về.” Mợ trả lời, “Nhà sẵn có bột gạo, để tôi đổ bánh xèo ăn.” Sau đó tôi nghe cậu Tám bảo 2 em con cậu bắt vịt. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng không tiện hỏi vì ở nhà mẹ tôi thỉnh thoảng có tráng bánh xèo, và mỗi lần như thế đối với nhà tôi đó là một sự kiện, cả một lực lượng được huy động trợ giúp, rau, tép, thịt được ra chợ mua về nườm nượp. Còn ở đây không như thế, không chút động tĩnh, trừ tiếng chú vịt bị bắt kêu cạp, cạp.

        Chừng nửa giờ sau từ dưới bếp vang lên tiếng dao chặt trên thớt bôm bốp. Ngạc nhiên, tôi hỏi chú Năm, “Mợ Tám nói đổ bánh xèo mà sao cháu không thấy ai đi chợ mua thịt, mua tép?” Chú tôi điềm nhiên trả lời, “Thì đổ bánh xèo bằng thịt vịt, hồi nãy cháu thấy mấy em đi bắt vịt đó.” Ngạc nhiên, tôi đi xuống bếp thấy mợ đang dùng sống dao phay bổ thật mạnh mớ xương cổ, xương đùi, xương sườn đặt trên thớt cho bể nát. Sau đó mợ trở sang bề lưỡi để băm cho thật nhuyễn phần xương vừa được đập nát. Phần thịt đã được lóc để riêng khi trước, sau đó sẽ được băm nhuyễn để trộn chung với phần xương đã băm nhuyễn dùng làm nhân bánh xèo. Mợ cho biết, ngoài bộ đồ lòng và huyết đã để riêng để chiều xào cải ăn cơm, toàn bộ phần thân con vịt sẽ được bằm nhỏ làm nhân bánh; chỉ bỏ đầu và 2 bàn chân (đúng ra phải nói là các ngón chân; cách đi của gà, vịt gọi là chỉ hành). Xương vịt cứng như vậy mà dưới công sức của mợ Tám, tôi ăn bánh xèo không có chút cảm giác lợn cợn của xương trong nhân bánh. Không thể tưởng tượng nỗi công phu và sự kiên nhẫn của mợ khi làm bánh xèo buổi ấy. Xin bái phục các mẹ, các chị vùng nông thôn.

        Xuất Hành Đầu Năm:

        Xuân năm đó gia đình tôi ăn tết ở Vĩnh Long. Không biết ba tôi xem sách hay nhờ thầy coi mà ông quyết định đầu năm đó xuất hành theo hướng đến chùa Ông, và vào giờ Dần (3 đến 5 giờ sáng).

        Thế là 4 giờ sáng tôi được đánh thức dậy, được cho mặc đồ đẹp để cùng xuất hành với ba. Tôi vội lục túi quần vừa mặc lấy số hồng bao được lì xì khi mừng tuổi hồi đầu hôm kiểm lại, nhét vội vào túi quần, đi ra phòng khách mở đĩa quả đựng mứt bốc một nắm mứt bí, mứt dừa bỏ vào túi làm “lộ phí” đi đường và cũng không quên bỏ vào miệng một miếng mứt gừng nhai cho… ấm bụng.

        Quê nội, quê ngoại tôi đều ở thị xã Vĩnh Long nhưng ba tôi không thích ở nhà bà Nội hẻm Lò Rèn, cầu Lầu, mà lại chọn ở nhà bà Ngoại, hẻm Huyện Cự, gần ngã ba ông Cảnh, và đoạn đường từ ngã ba ông Cảnh đến chùa Ông phải dài hơn 4 cây số. Ba tôi tuổi con ngựa nên đi bộ khỏe, tôi cũng tuổi con ngựa nên cũng phải ráng mà đi! Mồng 1 tết đã là mùa xuân nhưng vì mới 4 giờ sáng nên bên ngoài trời khá lạnh.

        Tôi đi co ro vì lạnh. Không khí vẫn còn thơm mùi thuốc pháo đốt lúc đón giao thừa. Xa xa vang vọng lại vài tiếng pháo đi đùng. Ra đến đường Lê Thái Tổ. Ngoài đường chỉ lác đác vài người đi, chắc họ cũng xuất hành đầu năm như cha con tôi. Mấy chú chó sợ pháo trốn đâu mất, tuyệt nhiên không thấy một bóng.

        Dưới ánh sáng nhá nhem của đèn đường vẫn có thể thấy hai bên phố đỏ hồng xác pháo, những cây mai, chậu mai được chưng trước nhà nở hoa vàng, gần đó là bàn thờ thông thiên sáng đèn, khói nhang vẫn còn tỏa, những chữ phước, lộc, thọ viết trên giấy đỏ được dán trên cổng hay trước cửa.

        Xuống dốc cầu Lộ, tòa nhà Giám Mục bên trong sáng đèn nhưng không một bóng người. Đến ngã tư dưới thì quẹo phải sang đường Trưng Nữ Vương. Gần cuối đường Trưng Nữ Vương có con mương nhỏ song song với đường, phía bên kia bờ mương có cây mai già rất to, rất đẹp, hoa và nụ đặc rật. Đi gần đến đầu cầu Khưu văn Ba thì quẹo trái sang đường Đồng Khánh, từ trong chùa Tịnh Độ vang ra tiếng tụng kinh, gõ mõ công phu sáng.

        Hãng dệt đầu cầu Lầu nghỉ Tết nên không còn tiếng khung dệt chạy rầm rập cảnh báo đã đến “ải” cầu Thiềng Đức. Đi trên cầu Thiềng Đức tôi run vì lạnh và vì sợ. Gió trên cầu rất mạnh. Xuống dốc cầu đến chỗ quẹo trái vào chùa đã thấy khá đông người. Đa số là người Hoa, có người đi lễ chùa, có người đứng hai bên đường vào chùa. “Cung hĩ, xách nhìn phát chòi lụ pản.” (Chúc mừng, năm mới phát tài ông chủ - tiếng Quảng Đông.) Hồng bao được móc ra trao. Từ gần cổng chùa cho đến sân chùa tiếng “cung hĩ, cung hĩ” cứ loạn cả lên. Trong chùa đèn mờ mờ, không khí tràn ngập mùi hương của nhang. Nhang vòng treo lòng thòng trên trần trông giống như cái nón lá, nhang cắm trong lư hương nhiều vô số, cây to, cây nhỏ, có những cây to bằng bắp tay của tôi cháy đỏ rực được cắm ở đỉnh ngoài sân hay được người đi chùa “rước lửa” về nhà cho… cả năm gia đình được ấm cúng. Người bái, người lạy, người lim dim mắt thành tâm khấn vái, người gieo quẻ xin keo, người lắc ống xăm… còn tôi đi men theo vách chùa nhìn cảnh âm ty, địa ngục với Ngưu đầu, Mã diện trừng trị những kẻ trộm cắp, bất lương, bất hiếu.

        Cảnh người bị gông, bị cùm, bị nhúng vào vạc dầu hay thiêu trên giàn hỏa… làm tôi vừa tò mò vừa sợ. Tò mò vì muốn biết tất cả các cách trừng phạt dưới địa ngục (!), cũng vì nghe nói đã lâu giờ mới thấy… hình, và sợ vì cảnh tượng dưới địa ngục ghê rợn quá! Sau chánh điện có tượng con ngựa đang ăn cỏ dáng vẻ thật đẹp, thật sinh động. Xem chưa mãn nhãn thì ba gọi tôi đi về để kịp giờ phụ gia đình cúng buổi sáng rồi còn đi chúc tết bà con, hàng xóm. Tưởng gì chứ đi chúc tết thì việc này tôi đã chờ cả năm, những câu chúc mẹ dạy tôi đã thuộc nằm lòng và vừa rồi tôi còn bổ sung thêm “vốn liến” bằng câu chúc của người Hoa học lóm được. Lúc ra khỏi chùa, trên đường về ba không quên hái lộc; mấy lá mai của một nhà gần chùa.

        Trở về, sau khi qua cầu Thiềng Đức chúng tôi đi theo đường Tống Phước Hiệp, nhưng tôi hơi thất vọng vì ba nói không ghé quán Đổng Hính, “mồng 1 không được để tiền ra”, tôi mất dịp uống cà phê sữa nóng đổ ra dĩa. Mà hôm ấy quán Đổng Hính cũng như nhiều quán khác không mở cửa. Đường Tống Phước Hiệp đầu năm ít người đi, ít xe chạy nên có vẻ rộng hơn. Như mọi năm miếu Quốc Công có đoàn hát bội về diễn. Cách đó 500m, chiếc xe hũ lô và chiếc xe ủi đất màu vàng của Công Chánh đậu bên kia đường trước trường Tống Phước Hiệp như đang chờ mấy cậu học trò nhỏ trèo lên ngồi chơi hay nghịch phá.

        Nguyễn Hoàng Long


        Comment


        • #5
          "...Có lẽ từ đây về sau mình sẽ gửi bài theo cách nầy vì khả năng thẩm mỹ, khả năng sử dụng vi tính của mình còn hạn chế. "

          ----oOo----

          Anh Long và các bạn thân mến

          "Vạn sự khởi đầu nan, gian nan bắt đầu nản " Rất nhiều người thông cảm với anh vì cùng một công việc nhưng hình như càng lớn tuổi thì càng gian nan .

          Nếu gian nan đến từ " phần cứng " như internet chập chờn, màn hình nhỏ, máy chạy tùy hứng (intermittant problem ) ... thì ACE trong BBT sẽ giúp anh Long post bài để kịp đáp ứng nhu cầu bạn đọc . Tuy nhiên nếu gian nan vì chưa quen "phần mềm " post bài lên diễn đàn thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy anh Long thông báo lại ... hết còn "hạn chế " trong một thời gian rất ngắn !

          Cảm ơn nhiệt tình của anh Long dành cho diễn đàn , chúc bạn đọc , đặc biệt là Thầy Hoa KNH , HN 74Knc và các đồng hương Vãng Long enjoy bài viết này của tác giả Nguyễn Hoàng Long .

          Thân ái

          NTT

          Comment


          • #6
            Thưa anh Long. KD cũng bị cái chứng xử dụng máy vi tính dở, đăng bài lên còn tèm lem nhưng được BBT sửa giúp cho, mình có thể chọn một ai đó để nhờ hoặc các bạn chọn cho cũng không sao hết. KD cám ơn BBT đã giúp sửa bài cho KD.

            Đọc bài của aLong KD biết thêm được nhiều về lối sống của người dân miền sông nước thật dễ thương, cám ơn aLong. Trước đây KD chỉ biết Vĩnh Long qua câu ca dao:

            Vĩnh Long có cặp rồng vàng

            Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Tài.

            Bán bao Bụng : cách gọi nghe thấy vui, cùng thời đó quê KD, dưới chân đèo Bảo-Lộc cũng có vườn cây "Nam Nhi" chuyên trồng sầu riêng và Chôm Chôm, đến mùa Trung Thu sầu riêng rộ, người ta cũng bán kiểu đó mà ít người tới vì sầu riêng, chôm- chôm ở Bảo-Lộc nhà ai cũng có vài cây trong vườn ăn không hết phải nhặt đi bán, còn du khách thì ít người dám vô vườn sầu riêng vì sợ đi vô bụi cỏ có rắn và lại sợ bị sầu riêng chín rụng trúng đầu mà có lượm được trái sầu riêng thì nếu không phải là người không sành ăn sầu riêng thì mở nó ra cũng khó nên người ta chỉ mua sầu riêng tại sạp ngay ngoài cổng đem về nhà.

            Nước Úc một số vườn trái cây ở NSW tiểu bang KD đang ở, tới mùa họ cũng bán như vậy. Hiện nay NSW đang trong School holidays người ta cũng đang dẫn con cháu đến vườn trái Hồng, vô cổng 10 đồng một người lớn còn con nít mấy đồng KD quên không nhớ, vô đó thích ăn bao nhiêu cũng được rồi lựa trái ưng ý nhất hái ra cổng cân trả tiền đem về. Nhà vườn Úc bán kiểu này có lời vì không mất tiền thuê người hái còn khách đến chỉ với mục đích đi chơi vui, và được thưởng thức cái độ gìon, cái vị thơm đặc biệt của trái mới hái từ cây xuống, giòn và thơm hơn hồng bán ngoài chợ . Trái Hồng không ai ăn no được mà ai cũng có ý thức cao, không bẻ cây, bẻ trái khi mình không cần. Nhà vườn vừa bán được trái cây vừa thu được tiền khách du lịch nên măm nào họ cũng mở cửa đón khách.

            Thân ái

            KimDung

            Comment


            • #7
              Hi anh Long!

              HN có cái thắc mắc là không biết loạt bài này đã được anh viết lâu chưa hay mới viết vì đọc tới đâu, cảnh vật nó như hiện ra rõ mồn một trước mắt (không biết các bạn có nghe đến từ rõ mồn một này bao giờ chưa?) và HN cũng xin được bổ túc!

              MỘT CHỤC

              Một chục ở VL là 12, chứ chục ở Sa Đéc là 18.

              MẮM

              Còn chuyện về bà Méo bán mắm là như vầy. Thời đó ở chợ VL có rất nhiều bà bán mắm, trong số đó có 2 bà nổi tiếng là bà Méo (miệng bà bị méo 1 bên) và bà Cầu Lầu (bà ở Cầu Lầu và bà cũng bán ở chợ chiều Cầu Lầu). HN là con gái lớn trong gia đình (có 8 anh em) cho nên lãnh nhiệm vụ đi chợ, lúc đó nó mới học lớp nhất; bà má muốn cho chắc ăn nên viết giấy để cho nhớ, đặc biệt là nếu mua mắm thì phải mua cho bằng được mắm bà Méo. Bà bán rất nhiều loại mắm: mắm lóc, mắm sặc, dưa mắm... Nguyên một khu bán mắm rất dài, các bà được ngồi san sát nhau trên cùng một cái sạp để bán. Chỗ của bà Méo lúc nào cũng không có chỗ chen chân trong lúc những quày khác thì trống lỏng. Lọt vào được bên trong rồi thì cũng còn phải đợi tới phiên. Khi bà hỏi muốn mua gì thì nhỏ cầm tờ giấy, dõng dạc đọc nguyên 1 tràng: "Bán cho nửa ký dưa Méo" một cách thật tình. Tai vừa nghe được chữ Méo thoát ra từ chính miệng mình thì nó giật bắn mình, nó dám nói chữ "méo" ngay trước mặt bà, rồi thì bụng thầm khấn vái cho bà đừng có nghe... Thời đó, kêu tên người lớn là tuyệt đối cấm rồi, huống chi nêu ra đích danh cái tên này...!

              BÁNH XÈO THỊT VỊT

              Thường thì vịt để làm bánh xèo là vịt nhỏ, xương còn mềm mới bằm được.

              ĐỊA DANH

              Nhà HN nằm trên đường Trưng Nữ Vương, ngang trại Cảnh Sát, gần Tòa Hành Chánh cho nên hồi Mậu Thân khu này bị lãnh đạn khá nhiều.


              :coffee:

              Comment


              • #8
                Originally posted by 'HongNhung'

                Hi anh Long!

                HN có cái thắc mắc là không biết loạt bài này đã ...

                ... lãnh đạn khá nhiều.


                Chào đồng hương Vĩnh Long,

                Bài nầy mình viết năm 2017, hai năm sau khi về hưu. Vĩnh Long giờ thay đổi quá nhiều: Cảnh cũ không còn, người xưa không thấy! Mình cảm thấy buồn vì những gì mình từng một thời gằn bó nay không còn nữa. Căn nhà tổ ở hẻm Lò Rèn cũng bị giải tỏa làm cầu Hưng Đạo Vương và đường Trần Đại Nghĩa.

                Mình thường đi đường Trưng Nữ Vương đến cầu Khưu văn Ba để vào hẻm Lò Rèn có nhà bà nội của mình. Mình sẽ post phần 3 bài để chúng ta cùng hoài niệm. Chào.

                [hr]

                Chào bạn,

                Người dân Vĩnh Long, cũng như người dân các vùng khác của vùng ĐBSCL, có cách nói chuyện, cách xưng hô rất chân phương nên hơi "lạ tai" với người sống ở các vùng miền khác, mà từ "bán bao bụng" là ví dụ. Lúc mình mới đi dạy (lúc ấy mới 23 tuổi-ở SG), theo thói quen mình gọi học sinh: "Em gái, lên bảng." Em nữ sinh "trợn trắng mắt" nhìn mình. Từ đó mình tự rèn thói quen khi đứng lớp phải dùng tiếng Việt chuẩn. Rất cám ơn bạn vì đã đọc bài và phản hồi. Mình phải cám ơn bạn thêm một lần nữa vì từ cmt của bạn mình nảy ra một ý hay, có thể viết được một bài. Chào.



                [hr]

                Comment


                • #9
                  Những Việc Hơi Xưa Về Vãng Long( tiếp theo)



                  Phần Cuối


                  Con Nước Tháng 10

                  Với 14 đập thủy điện chắn ngang sông Cửu Long, Vĩnh Long và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long năm 2015 này đã không còn bị nước lũ tràn về, hay theo cách nói thân thương: không còn “Con nước tháng 10 (âm lịch)”. Theo sự suy nghĩ của tôi: với ảnh hưởng của thời tiết cực đoan và sự ích kỷ của một số quốc gia đầu nguồn, việc này sẽ là vĩnh viễn. Cũng may, trái với suy nghĩ của tôi, năm 2017 nước lũ đã về đồng bằng sông Cửu Long sau mấy năm vắng bóng. Không biết việc nầy có phải là ảnh hưởng của việc một đập thủy điện bên Lào xây gần xong thì bị vỡ trước đó (cũng trong năm 2017)?

                  Một sáng thức dậy mở cửa nhìn ra tôi thấy khoảnh sân trước nhà một số nơi đã bị ngập nước. Mùa nước lũ lại về. Được sự chỉ đạo của bà ngoại, tôi góp nhặt gạch, ván thừa trong nhà chuẩn bị kê, lót làm lối đi ngoài sân. Chỉ ngày hôm sau nguyên khoảnh sân đã chìm dưới nước. Ai muốn ra ngoài phải đi trên ván kê tạm.





                  Nước ngập sân- ( Photo from internet )




                  Sau khi bị ngập nước mấy hôm, lá một số cây bắt đầu vàng. Thế là tôi bỏ dép, lò dò đi xem cây trồng quanh nhà. Thật bất ngờ. Gần bụi bông trang một con cá lóc to cỡ cổ tay tôi đang quẫy mình cố lóc đi. (Ở nước ta, tùy theo vùng cá lóc có tên gọi riêng, nhưng theo tôi cách gọi “cá lóc” là hay nhất vì nó tượng hình, nói lên được nét độc đáo của con vật.) Mừng quá, tôi chộp con cá mang vào nhà khoe thành tích tay không bắt được cá (đúng ra phải nói là lượm được con cá!)

                  Rồi thì cá linh theo dòng nước từ biển Hồ tràn về. Phải nói là cá linh lúc nhúc dưới nước. Mà cũng lạ. Con cá lúc còn dưới nước thấy bé xíu, nhưng khi lên khỏi mặt nước con nào con nấy dài cả mấy centimet. Người câu cá dở như tôi mà một giờ cũng giật được cả chục con. Thế là nhà tôi ăn cá linh nấu canh chua bông điên điển, cá linh kho tiêu, cá linh lăn bột chiên…

                  Một loại thủy sản khác cũng xuất hiện rất nhiều vào mùa nước nổi là tép mòng, tép trứng. Không biết chúng sinh sống ở đâu mà lúc ấy xuất hiện rất nhiều, giá bán rất rẻ. Tôi nhớ mãi món hủ tiếu xào với tép lúc ấy với lượng tép và hủ tiếu tương đương. Dĩa hủ tiếu đỏ rực tép, chan với nước mắm cũng đỏ rực (ớt).

                  Con nước tháng 10 về luôn mang lại niềm vui và hy vọng cho người dân đồng bằng sông Cửu Long.





                  Bông Điên Điển mùa nước nổi.



                  Bông Ô Môi ( photo from internet )




                  Khạp nước ven đường

                  Năm trước, lúc xem chương trình truyền hình về SEA GAMES Myanmar tôi thấy có chiếu và nói đến những hũ nước cho khách bộ hành uống được đặt ven đường ở vùng nông thôn Myanmar. Ở Vĩnh Long, việc này đã có từ xưa. Tôi còn nhớ lúc nhỏ, mới đây thôi, những năm 67 - 68 khi học Tống Phước Hiệp, có thể đi chơi cả ngày mà không phải kè kè mang theo chai nước, mà cũng không phải tốn tiền vào quán vì ven đường đã có những lu nước để uống. Ở nhà tôi cũng thế. Bà Ngoại cho đặt ven đường trước nhà một khạp nước nhỏ (khoảng 40 lít). Nước trong khạp là nước mưa, đã được lọc kỹ qua mấy lớp vải mùng, cạnh đó là cây cọc móc cái gáo dừa có cán dài để múc nước uống. Tôi là người chịu trách nhiệm chăm nước vào lu, nếu thấy vơi.

                  Sau này ít người uống vì họ cho là thiếu vệ sinh, nước chưa đun sôi tiệt trùng, và bao nhiêu người uống chung một cái gáo. Rồi một ngày nắp khạp bị bể, có thể là do có người đi đường mõi chân ngồi lên. Tôi tìm được viên gạch tàu lục giác làm nắp tạm, nhưng chỉ một tuần sau là phải dẹp vì lần này hũ bị bể (viên gạch tàu phẳng, ngồi còn thoải mái hơn!) Hiện nay ở tp HCM nhiều nơi ven đường tôi thấy có những bình nước uống miễn phí. Rất hay. Truyền thống hiếu khách lại được tiếp tục.







                  Khạp nước ven đường và gáo dừa- Ảnh của Hoa Mai




                  Quá Giang

                  Khi xin đi xe nhờ, người ta sẽ nói là “xin quá giang”. Có người còn nói trại ra là “xin có giang.” Thật ra từ “quá giang” có nghĩa là đi nhờ xuồng, ghe sang bên kia sông vì nơi đó không có cầu. Vĩnh Long, cũng như những tỉnh khác của vùng đồng bằng Cửu Long, với hệ thống kênh rạch chằng chịt khó có thể xây cầu qua hết mọi con sông nên việc cho “quá giang” là một việc cần thiết, là sự tương trợ giữa con người với nhau khi sống giữa vùng sông nước mênh mông, dù việc làm ấy mất rất nhiều công sức và thời gian. Tôi thật sự hiểu được ý nghĩa của từ quá giang khi đi thăm nhà người cậu sống ở vùng Vườn Cò, Măng Thít, Vĩnh Long. Lúc ấy, đến nhà cậu của tôi chưa có đường đi chính thức, phải băng đồng mà đi, hoặc đi đò khách. Đò đậu ở bến sông gần chợ ngã 4 Long Hồ, và mỗi ngày chỉ chạy 1 chuyến. Trễ đò, tôi và đứa em con của cậu (hướng dẫn viên cho tôi) phải đi bộ. Chúng tôi mấy lần xin quá giang nhưng chưa lần nào bị từ chối. Khi đi đường gặp con sông chắn ngang nhưng không có cầu để đi qua, rồi được một người tốt bụng cho quá giang thì sung sướng nào bằng? Việc quá giang đã mang đến cho tôi những kỷ niệm khó quên. Muốn xin quá giang, bạn phải đứng sát bờ sông ở nơi dễ thấy nhất. Khi thấy có xuồng, ghe đến, bất kỳ theo hướng nào, bạn phải la thật to để người chèo xuồng thấy bạn ở khoảng cách càng xa, càng tốt, vì xuồng chạy trên nước, chạy lui rất khó và cũng không thể quẹo vào bờ theo góc 90 độ như xe chạy trên đường, cạnh đó còn có yếu tố dòng chảy thuận hay nghịch. Khi người lái xuồng thấy bạn và chịu cho bạn quá giang họ sẽ chỉ cho bạn chỗ xuồng họ sẽ cập vào, và cũng là nơi bạn phải chạy đến đứng chờ. Và bờ sông không phải chỗ nào cũng quang đảng. Có trường hợp quá giang rồi bạn lại thấy mình đang đứng trước một con kênh khác, lại phải tìm và chờ xin quá giang. Tôi cũng từng bị như thế. Bờ sông chỗ ấy cây cối um tùm, che khuất con kênh. Qua sông không bị ướt, giờ không lẽ chịu ướt vì phải lội qua con kênh rộng có 5 – 6 mét? Thế là tôi bấm bụng vạch cây lá đi bộ men theo con kênh. May quá. Đó chỉ là một cái xẻo cựa gà dài khoảng 50 mét. Cũng đỡ.

                  Khoảng thời gian “quá giang” chỉ vài phút, trao đổi được dăm câu, thường là chào hỏi về bà con, hàng xóm, gia cảnh. Dân thành phố (Sài Gòn) về sẽ được đặc biệt ưu ái. Còn gì vui bằng khi anh trai là dân chợ, còn người cho quá giang là một cô gái mặc áo bà ba, mái tóc đen dài, đội nón lá có 2 đầu quai bằng vải nylon màu hồng, màu tím bay phất phơ trong gió. Đẹp và ấn tượng nhất là những cô có thân hình thon thả, chèo bằng mái chèo đôi, tư thế đứng, người cô chuyển động nhịp nhàng theo từng nhịp chèo, tà áo bà ba bay phất phới… Trong trường hợp ấy hãy chiêm ngưỡng “cô gái cho mình qua giang” theo cách thật khéo, kẻo cô gái ngượng mà lũi xuồng vào bụi dứa gai (tàu lá dứa gai sau khi rọc bỏ phần gai 2 bên mép lá sẽ được cắt khúc thành đoạn 7 – 8 cm để xúc bắp bung ăn), hay bụi ô rô (lá cũng đầy gai) để sau khi lên bờ bạn sẽ có kỷ niệm đau … thương nhớ đời. Đã có rất nhiều cuộc tình lãng mạn, rất nhiều cặp thành vợ, thành chồng, hay những kỷ niệm nhớ đời sau những lần quá giang như thế.







                  Chèo xuồng mái đôi, tư thế đứng



                  Ngồi chèo mái đôi, ( Photo from Soha.vn)




                  HẾT

                  Nguyễn hoàng Long

                  Comment


                  • #10


                    Người thật việc thật, ký ức tuổi thơ, cùng với lời văn đơn giản chân thật như người miền Tây đã đưa người đọc trở về mùa nước nỗi năm xưa ở Vietnam:

                    “… cá linh theo dòng nước từ biển Hồ tràn về. Phải nói là cá linh lúc nhúc dưới nước. Mà cũng lạ. Con cá lúc còn dưới nước thấy bé xíu, nhưng khi lên khỏi mặt nước con nào con nấy dài cả mấy centimet. Người câu cá dở như tôi mà một giờ cũng giật được cả chục con. Thế là nhà tôi ăn cá linh nấu canh chua bông điên điển, cá linh kho tiêu, cá linh lăn bột chiên…”

                    Món canh chua cá linh với bông điên điển hấp dẫn có lẽ chỉ còn là kỷ niệm với các bạn ở nước ngoài.




                    Chưa may mắn đến thăm Vĩnh Long, nhưng bài viết đã gợi nhớ tuổi thơ ở Saigon, cũng được uống café sửa nóng đổ ra đĩa, hay món dưa mắm khoái khẩu được ăn với tô cháo đậu đỏ nước dừa vào những buổi sáng trước khi ôm cặp táp được cha chở đi đưa đến trường ngày xưa.




                    Món bánh xèo nhân thịt vịt lần đầu nghe là lạ, đọc thấy hấp dẫn hương quê, lên Net thì thấy món ăn này đang dần dần trở nên quen thuộc bởi sự hấp dẫn của món ăn thú vị lạ miệng này.




                    Cảm ơn tác giả đã cho đi "quá giang" một chuyến về miền Tây thăm Vĩnh Long qua chuỗi bài viết với những hoài niệm, các địa danh năm xưa, cũng như những món ăn dân dã ngọt ngào hương vị đồng quê của… Vãng Long!!

                    Tình thân,

                    4


                    Best wishes,

                    Comment


                    • #11


                      Tư mến,

                      Người ta vẫn nói "XA LẠ", khổ nỗi mình không ở XA nhưng bây giờ về Vĩnh Long lại thấy LẠ; LẠ ngay tại quê hương mình!

                      Hoài niệm ấy được mình ghi lại chia sẻ với các bạn, để các bạn đang ở nước ngoài bồi hồi nhớ quê, các bạn đang ở trong nước khẽ cười vì thấy hình bóng mình trong ấy, để nhớ lại quê hương chúng ta từng có những việc như thế.


                      Comment


                      • #12

                        Lối viết tổng hợp giữa Hồi Ký và Biên Khảo của “Chuyện xưa giờ mới kể” gợi nhớ nhiều đến hai nhà văn miền Nam nổi tiếng được nhiều độc giả mến mộ là Vương Hồng Sển và Nguyễn Hiến Lê. Riêng bài viết về Vĩnh Long đã làm sống lại những kỷ niệm tuyệt đẹp đã có khi theo bạn LHKhoanh (BKTC) lần đầu tiên về thăm thành phố xinh đẹp này trong một dịp nghỉ hè. Chỉ những người có tâm tình sâu nặng với trường cũ, quê xưa như anh mới có thể ghi lại để chia sẻ với bạn bè những xúc cảm đậm đà như thế.

                        Comment


                        • #13
                          Lại nhớ nữa rồi - Chiếc Bắc/Phà Mỹ Thuận!

                          Sài Gòn cách Vĩnh Long only 136 cây số ,ngồi xe đò mất hết 3 tiếng mà hầu hết là đợi tại bến phà, đó là chưa kể thời gian xếp hàng mua vé xe đò; tổng cộng cũng gần hết ngày đường!

                          Từ VL đến Mỹ Thuận chỉ có khoảng 8 cây số cho nên lúc nào trở lại trường HN đều cũng phải rời nhà thật sớm để còn bắt xe kịp về Thủ Đức. Đến bến phà, hành khách phải xuống xe, mang theo hành lý nếu muốn, phải đi bộ thật xa để lên phà cho nên đây là địa bàn của quán xá, hành khất và những người buôn bán vặt (nem, ổi, mận, bánh tráng dừa...). Tại đây, có lần HN đã gặp được cô Cẩm Nhung sau nhiều năm nghe đồn là cô xin ăn ở đây. Cô đội nón lá lụp xụp nhưng cũng đủ để thấy được gương mặt đã bị hủy bởi acit; cô không ăn mặc rách rưới, riêng bàn tay cầm lon thì vẫn còn vẻ nuột nà...! Nhờ bức ảnh cô đeo phía trước ngực mà HN biết được chính xác là cô.

                          Lần khác, trong lúc đứng chờ qua phà, thường thì HN đứng riêng 1 mình vì không muốn bị chen lấn. Có một bé trai dắt ông già ăn xin bị mù, tay cầm đàn, tới đứng ngay trước mặt mình rồi mới bắt đầu lên giây đàn (chắc mình là người mở hàng vì trời còn tối...) và cuối cùng ông cất giọng: "Nhung ơi sao em đành bỏ ra đi khi con thơ mới vừa lên 2 tuổi...!" Thế có lạnh người không chớ?! Cười thì cũng không dám cười...! HN biết đó là câu vọng cổ trong tuồng Tướng Cướp Bạch Hải Đường!

                          :coffee:

                          Comment

                          Working...
                          X