Sức sống của bolero Việt không nằm ngoài dòng chảy miệt mài hơn trăm năm của dòng nhạc bolero thế giới, bắt đầu từ nơi khởi xướng là đảo quốc Cuba.
Quả là ý tưởng kỳ cục khi nghĩ về những bản tình ca sang trọng lay động hàng triệu con tim như “Besame Mucho”, “Guantanamera”, “My Heart Will Go On” hay thậm chí “Yesterday” của nhóm nhạc lừng danh Beatles như những bản bolero – điệu nhạc “sến rện” và bình dân trong cái nhìn định kiến của nhiều người.
Nhưng người ta cho rằng, chúng là những bản bolero nổi tiếng bậc nhất thế giới, minh chứng cho những đỉnh cao và sự bền bỉ của một trong những dòng nhạc đứng vững như một biểu tượng văn hóa đại chúng của các nước Mỹ La Tinh.
Theo hai tác giả Lisa Shaw, Stephanie Dennison của cuốn sách Pop Culture Latin America!: Media, Arts, and Lifestyle (Văn hóa đại chúng Mỹ La Tinh: Truyền thông, Nghệ thuật và Lối sống), hầu hết giới nghiên cứu cho rằng nhạc bolero xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 19. Những bài bolero đầu tiên khởi sinh từ Cuba, nhanh chóng lan tỏa và bén rễ sang các đảo quốc ở vùng biển Caribbean và Mexico.
Thăng trầm của trăm năm
Những sáng tạo đầu tiên khởi đi truyền thống hơn trăm năm của bolero là từ Santiago, thành phố xinh đẹp phía đông nam đảo quốc Cuba, nơi thịnh hành những nghệ sĩ du ca dùng guitar đàn hát để kiếm sống trong ba thập niên cuối của thế kỷ 19. Một trong những người chủ xướng, định hình phong cách đặc trưng cho bolero là Pepe Sánchez (1856 – 1918), một nghệ sĩ – thầy giáo, người đã sáng tác bản bolero đầu tiên Tristezas (Những niềm đau) vào năm 1883 hoặc ít lâu sau đó. Bản nhạc cho đến nay vẫn còn được hát.
Nhưng như các thể loại khác, bolero không bước ra từ khoảng không. Cái nôi của bolero được cho là từ một điệu nhạc nhảy theo nhịp ¾ ở Tây Ban Nha vào thế kỷ 18. Dù cùng tên, nhưng điệu bolero mới ra đời gần như không nợ nần gì với nguồn gốc, bởi nó đã thay đổi nhịp thành 2/4, và sau đó là nhịp 4/4. Tuy nhiên, bản thân nó cũng pha trộn nhiều điệu nhạc gốc châu Âu và gốc Phi thịnh hành đương thời như danza, habanera, trova, son, minh chứng bởi tiếng đệm đàn guitar và sự ảnh hưởng lên giai điệu.
Sức hấp dẫn của dòng nhạc nhảy chậm buồn và lãng mạn giúp bolero nhanh chóng vượt biển sang đến Mexico, các nước vùng Caribbean, xuống đến các nước Nam Mỹ như Brazil, Argentina, Columbia, Chile, Venezuela, Ecuador, Bolivia…, quay trở lại cái nôi của nó là Tây Ban Nha.
Thời hoàng kim của Bolero ở các nước Mỹ La Tinh bắt đầu từ những năm 1930, kéo dài liên tục trong suốt ba thập niên, với những nghệ sĩ nổi tiếng như Antonio Machin, cặp song ca Los Compadres (Cuba), nhóm nhạc Los Panchos, Los Hermanos Martínez Gil và Trío Tarácuri, Agustín Lara (Mexico), Lucho Gatica (Chile)…Thời kỳ này, bolero còn ảnh hưởng sang thế giới nói tiếng Anh, được trình diễn bởi nhiều nghệ sĩ Mỹ như Bing Crosby, Nat King Cole hay Frank Sinatra.
Có lẽ bản bolero nổi tiếng nhất trong lịch sử chính là Bésame mucho (Hãy hôn em thật nhiều, 1941), được nữ nghệ sĩ người Mexico Consuelo Velásquez sáng tác vào năm cô chỉ mới 15 tuổi. Bài hát tình tứ mà tình nhân dành cho nhau hóa ra lại là tâm sự của một cô bé chưa một lần được hôn, đang mơ mộng một cuộc tình lãng mạn.
Không chỉ phổ biến trong khu vực Mỹ La Tinh, bài hát đến nay vẫn được rất nhiều ca sĩ tên tuổi trình diễn như Tona la Negra, Ruth Fermández, Luis Miguel. Thậm chí, Bésame Mucho từng xuất hiện trong album ghi âm năm 1962 The Beatles Live at Star Club in Hamburg của nhóm nhạc The Beatles.
Sự ủy mị thuần khiết
Mặc dù, theo thời gian, bolero đã có nhiều thay đổi cả về giai điệu lẫn sức ảnh hưởng, có thêm nhiều biến thể như bolero son, bolero moruno, bolero mambo, bolero beguine, bolero feeling, bolero ranchera. Các ý kiến đánh giá đều cho rằng bolero là phong cách âm nhạc đầu tiên của Cuba có sức ảnh hưởng rộng khắp thế giới đầu tiên và đạt được những thành tựu được công nhận trên toàn cầu.
Điều thú vị là bất kể màu sắc âm nhạc có thay đổi tùy theo bối cảnh văn hóa bản địa, bolero vẫn luôn giữ lại cho mình một đặc trưng thuộc về ca từ. Dòng nhạc bolero Việt Nam cũng không nằm ngoài đặc trưng này. Đó là những bản nhạc có ca từ thể hiện tình cảm, các quan niệm về tình yêu và cuộc sống, được viết ra bằng phong cách ngôn từ sáng rõ, mộc mạc và chân thành. Chúng thường bắt đầu bằng một hồi ức, kỷ niệm riêng tư nhưng lại điển hình, chạm tới hoàn cảnh phổ biến của số đông người nghe.
Ngoài câu chuyện tự sự về cuộc đời dâu bể, lẽ hợp tan, nhân tình thế thái, phần lớn các bản bolero là nhạc tình, trong đó lời ca và tiếng nhạc chậm đều trở thành hai yếu tố cộng hưởng, dìu bước chân của đôi bạn nhảy trong khoảnh khắc riêng tư và không ngừng nghỉ.
Chủ đề tình yêu cùng cung bậc xúc cảm, hệ lụy của nó, từ những hẹn hò, đam mê thầm kín cho đến hạnh phúc bị ngăn trở, hờn trách của người yêu vì những ngày xa cách… được đề cập trong các bản bolero đôi khi sáo mòn, hoặc đơn giản quá mức, khiến nó bị cho là ủy mị, dù thuần khiết và chân phương.
Minh Chánh
Quả là ý tưởng kỳ cục khi nghĩ về những bản tình ca sang trọng lay động hàng triệu con tim như “Besame Mucho”, “Guantanamera”, “My Heart Will Go On” hay thậm chí “Yesterday” của nhóm nhạc lừng danh Beatles như những bản bolero – điệu nhạc “sến rện” và bình dân trong cái nhìn định kiến của nhiều người.
Nhưng người ta cho rằng, chúng là những bản bolero nổi tiếng bậc nhất thế giới, minh chứng cho những đỉnh cao và sự bền bỉ của một trong những dòng nhạc đứng vững như một biểu tượng văn hóa đại chúng của các nước Mỹ La Tinh.
Theo hai tác giả Lisa Shaw, Stephanie Dennison của cuốn sách Pop Culture Latin America!: Media, Arts, and Lifestyle (Văn hóa đại chúng Mỹ La Tinh: Truyền thông, Nghệ thuật và Lối sống), hầu hết giới nghiên cứu cho rằng nhạc bolero xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 19. Những bài bolero đầu tiên khởi sinh từ Cuba, nhanh chóng lan tỏa và bén rễ sang các đảo quốc ở vùng biển Caribbean và Mexico.
Thăng trầm của trăm năm
Những sáng tạo đầu tiên khởi đi truyền thống hơn trăm năm của bolero là từ Santiago, thành phố xinh đẹp phía đông nam đảo quốc Cuba, nơi thịnh hành những nghệ sĩ du ca dùng guitar đàn hát để kiếm sống trong ba thập niên cuối của thế kỷ 19. Một trong những người chủ xướng, định hình phong cách đặc trưng cho bolero là Pepe Sánchez (1856 – 1918), một nghệ sĩ – thầy giáo, người đã sáng tác bản bolero đầu tiên Tristezas (Những niềm đau) vào năm 1883 hoặc ít lâu sau đó. Bản nhạc cho đến nay vẫn còn được hát.
Nhưng như các thể loại khác, bolero không bước ra từ khoảng không. Cái nôi của bolero được cho là từ một điệu nhạc nhảy theo nhịp ¾ ở Tây Ban Nha vào thế kỷ 18. Dù cùng tên, nhưng điệu bolero mới ra đời gần như không nợ nần gì với nguồn gốc, bởi nó đã thay đổi nhịp thành 2/4, và sau đó là nhịp 4/4. Tuy nhiên, bản thân nó cũng pha trộn nhiều điệu nhạc gốc châu Âu và gốc Phi thịnh hành đương thời như danza, habanera, trova, son, minh chứng bởi tiếng đệm đàn guitar và sự ảnh hưởng lên giai điệu.
Sức hấp dẫn của dòng nhạc nhảy chậm buồn và lãng mạn giúp bolero nhanh chóng vượt biển sang đến Mexico, các nước vùng Caribbean, xuống đến các nước Nam Mỹ như Brazil, Argentina, Columbia, Chile, Venezuela, Ecuador, Bolivia…, quay trở lại cái nôi của nó là Tây Ban Nha.
Thời hoàng kim của Bolero ở các nước Mỹ La Tinh bắt đầu từ những năm 1930, kéo dài liên tục trong suốt ba thập niên, với những nghệ sĩ nổi tiếng như Antonio Machin, cặp song ca Los Compadres (Cuba), nhóm nhạc Los Panchos, Los Hermanos Martínez Gil và Trío Tarácuri, Agustín Lara (Mexico), Lucho Gatica (Chile)…Thời kỳ này, bolero còn ảnh hưởng sang thế giới nói tiếng Anh, được trình diễn bởi nhiều nghệ sĩ Mỹ như Bing Crosby, Nat King Cole hay Frank Sinatra.
Có lẽ bản bolero nổi tiếng nhất trong lịch sử chính là Bésame mucho (Hãy hôn em thật nhiều, 1941), được nữ nghệ sĩ người Mexico Consuelo Velásquez sáng tác vào năm cô chỉ mới 15 tuổi. Bài hát tình tứ mà tình nhân dành cho nhau hóa ra lại là tâm sự của một cô bé chưa một lần được hôn, đang mơ mộng một cuộc tình lãng mạn.
Không chỉ phổ biến trong khu vực Mỹ La Tinh, bài hát đến nay vẫn được rất nhiều ca sĩ tên tuổi trình diễn như Tona la Negra, Ruth Fermández, Luis Miguel. Thậm chí, Bésame Mucho từng xuất hiện trong album ghi âm năm 1962 The Beatles Live at Star Club in Hamburg của nhóm nhạc The Beatles.
Sự ủy mị thuần khiết
Mặc dù, theo thời gian, bolero đã có nhiều thay đổi cả về giai điệu lẫn sức ảnh hưởng, có thêm nhiều biến thể như bolero son, bolero moruno, bolero mambo, bolero beguine, bolero feeling, bolero ranchera. Các ý kiến đánh giá đều cho rằng bolero là phong cách âm nhạc đầu tiên của Cuba có sức ảnh hưởng rộng khắp thế giới đầu tiên và đạt được những thành tựu được công nhận trên toàn cầu.
Điều thú vị là bất kể màu sắc âm nhạc có thay đổi tùy theo bối cảnh văn hóa bản địa, bolero vẫn luôn giữ lại cho mình một đặc trưng thuộc về ca từ. Dòng nhạc bolero Việt Nam cũng không nằm ngoài đặc trưng này. Đó là những bản nhạc có ca từ thể hiện tình cảm, các quan niệm về tình yêu và cuộc sống, được viết ra bằng phong cách ngôn từ sáng rõ, mộc mạc và chân thành. Chúng thường bắt đầu bằng một hồi ức, kỷ niệm riêng tư nhưng lại điển hình, chạm tới hoàn cảnh phổ biến của số đông người nghe.
Ngoài câu chuyện tự sự về cuộc đời dâu bể, lẽ hợp tan, nhân tình thế thái, phần lớn các bản bolero là nhạc tình, trong đó lời ca và tiếng nhạc chậm đều trở thành hai yếu tố cộng hưởng, dìu bước chân của đôi bạn nhảy trong khoảnh khắc riêng tư và không ngừng nghỉ.
Chủ đề tình yêu cùng cung bậc xúc cảm, hệ lụy của nó, từ những hẹn hò, đam mê thầm kín cho đến hạnh phúc bị ngăn trở, hờn trách của người yêu vì những ngày xa cách… được đề cập trong các bản bolero đôi khi sáo mòn, hoặc đơn giản quá mức, khiến nó bị cho là ủy mị, dù thuần khiết và chân phương.
Minh Chánh
Comment