Announcement

Collapse
No announcement yet.

PHƯỚC LONG, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI CỦA TÔI (THIÊN NHIÊN).

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • PHƯỚC LONG, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI CỦA TÔI (THIÊN NHIÊN).

    THIÊN NHIÊN


    Có truyền thuyết cho là ở miền Đông có 2 bà tiên, chị tên Bà Đen, còn em tên Bà Rá. Hai bà sau này hoá thành 2 ngọn núi: Núi Bà Đen ở Tây Ninh vì là hoá thân của chị nên cao hơn 900m, trong khi núi Bà Rá ở PL chỉ cao 733m.

    Ngọn Bà Rá sừng sững đã làm choáng ngợp tâm trí tôi. Dù sống ở Phước Bình (gần 2 năm trong cộng đồng nhỏ dưới dốc phi trường), hay ở thị xã PL (sau đó ba tôi được cấp nhà trong khu phố công chức), chỉ cần bước ra khỏi nhà là tôi có thể thấy núi. Khung cảnh hoang vu, vắng vẻ ban ngày, đêm tối tăm do không có đèn điện (những năm đầu), cùng với tiếng kêu của thú rừng, cộng với trí tưởng tượng khi nghe kể những truyện như trại tù Bà Rá xưa không cần hàng rào vì ai đi vào rừng sâu là bị hổ ăn thịt… và nhất là sau này khi xem những truyện đường rừng làm tôi vừa sợ, vừa tò mò muốn biết, muốn khám phá.

    Sau khi tôi lên PL sống được vài tháng, một buổi sáng chú nhà kế bên đi làm muộn, khi đi có mang theo một va li to. Khoảng 9 – 10 giờ chị em tôi ra sân chơi mới thấy trước cửa nhà chú có những dấu tròn, to gần bắng cái chén ăn cơm và một bãi nước bọt. Mẹ tôi ra xem nói đó là những dấu chân hổ và bãi nước bọt của hổ. Con hổ đã ở đó khá lâu nên nước bọt mới nhểu thành bãi! Ba tôi lập tức thuê người làm hàng rào cao quanh nhà. Nhưng có người nói có những con hổ có thể vác con bò nặng 200 – 300kg mà vẫn có thể nhảy qua rào cao 2m! (Vác con bò 300kg nhảy qua rào cao 2m thì chưa chắc, nhưng mới đây, hổ ở khu du lịch Đại Nam, Bình Dương đã nhảy qua hàng rào cao hơn 2m.) Để giữ chân chị em tôi trong nhà, ba mua về thật nhiều sách, truyện. Thế là tôi làm quen với Những Tâm Hồn Cao Thượng, Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, Cậu Hoàng Con, Truyện Cổ Nước Nam… và cả Cổ Học Tinh Hoa. Một thời gian sau căn nhà kế bên được 2 cô giáo sang lại (cô Liên và cô Định), và hai cô trở thành hàng xóm thân thiết của chúng tôi.

    Ngay buổi chiều đầu tiên vào ở thị xã PL tôi đã phát hiện một việc lạ. Do căn nhà mới của gia đình mặt trước hướng gần thẳng về phía núi Bà Rá nên ngồi trong nhà cũng có thể nhìn thấy núi. Buổi chiều hôm ấy, khi mặt trời vừa xế là tôi thấy thấp thoáng trên núi có những đốm lửa. Càng về tối số đốm lửa trên núi càng nhiều, cao điểm là khoảng 9 giờ, sau đó những đốm lửa ít dần. Có người biết chuyện giải thích những đốm lửa ấy là do người S’tiêng đốt khi khai thác dầu chai trên núi (có người gọi là dầu trai), nhưng không giải thích tại sao lúc hơn 9 giờ thì những đốm lửa ít đi và về thật khuya thì mất hẵn. Trí óc non nớt của tôi lúc ấy bị ảnh hưởng nhiều bởi những truyện ma, truyện đường rừng đã khiến tôi nghĩ rằng những đốm lửa ấy là những con ma trơi phát ra ánh sáng và chúng bay được. Chiều tối ma bay lên núi tụ họp (!) rồi sau đó ma bay toả đi những nơi khác hành sự, vì thế sau 9 giờ những đốm sáng trên núi ít dần rồi hết.

    Sau này, khi đi học và có bạn nhà ở gần núi, tôi đã có dịp trèo lên … chân núi, và nhìn thấy cây dầu với cái bọng mà người Thượng đục trong thân cây để khai thác chai. Bọng được đục sâu vào vùng gỗ với đáy bọng phía trong sâu hơn phía ngoài vỏ. Dầu chai khi khô bít kín mạch khiến nhựa không tiết ra được. Buổi chiều, người Thượng dùng lửa đốt cháy lớp dầu khô trên bề mặt bọng làm mạch trên thân cây dầu thông suốt và nhựa chai tiết ra. Nhựa chai khô cháy hết cùng lúc dầu chai lỏng tiết ra làm tắt lửa và chúng được giữ lại dưới đáy bọng. Sáng sớm hôm sau đồng bào Thượng đến lấy đi phần nhựa chai lúc nầy còn lỏng, phần nhựa đặc nhưng mỏng dính trên bề mặt bọng sẽ bị đốt vào buổi chiều. Theo thời gian khai thác, bọng trên thân cây dầu ngày một to hơn cho đến lúc cây chết. Rất đơn giản.

    PL thuộc vùng cao nguyên, mùa nắng khô khan, bụi đỏ bay mù, trên mặt đất cỏ và cây bụi chết rụi. Mùa này người dân nghèo PL có nhiều nỗi lo: lo thiếu nước sử dụng và nhất là lo cháy nhà. Nhà cất cách nhau khá xa (vài ba mươi mét) nhưng vẫn bị cháy lây do mái thường lợp bằng tranh, tàn (lửa) tranh nhẹ theo gió bay đi rất xa làm cháy lan. Thế là khi có đám cháy dù ở rất xa, cả xóm mái nhà đều không còn do chủ nhà tốc mái xuống, ngừa bị cháy lan. Người có điều kiện hơn thì lợp nhà mái tre, ít lo bị cháy. Mái nhà tre lợp theo nguyên tắc của mái ngói âm dương, một hàng đặt ngữa cạnh một hàng đặt sấp. Mái nhà tre tuổi thọ khoảng 3 năm, còn mái tranh may lắm là 2 năm. Có người còn lợp nhà bằng những cái lá to (dài 20 – 25cm) của dây trung quân.

    Mùa mưa cây cỏ mọc xanh tốt che khuất làm núi rừng thêm phần âm u, bí ẩn. Ở PL có loại kiến rừng màu đen bóng, cơ thể to hơn kiến vàng, người dân gọi là kiến bù nhọt. Khi bị loại kiến này cắn, người bị cắn có cảm giác đau như điện giật, và cảm giác đau kéo dài. Người mới lên PL chưa có kinh nghiệm về loại kiến này khi mua gà, vịt về để dành hôm sau ăn sẽ cột gà, vịt cho đứng dưới đất, hôm sau quay lại chỉ còn thấy dây cột, lông và xương. Sau trận mưa, mối rừng bụng to bằng mút đủa mọc cánh bay đầy được người S’tiêng bắt ăn. Cảnh này trông vui vui.

    Mùa hè ve kêu ran, nhưng vào buổi tối (khoảng 18 - 20 giờ) loại ve rừng, to gấp vài lần ve thường, mới lên tiếng. Tiếng kêu của loài ve này to như tiếng còi đò dọc đi Hòa Ninh, Chợ Lách, Đồng Phú. Chúng làm tôi thêm nhớ quê hương Vĩnh Long. Vì có tiếng kêu to nên loại ve này rất dễ bắt. Chỉ cần dùng đèn pin chiếu về hướng phát ra tiếng kêu là có thể thấy chúng. Hình như loài này bị thu hút bởi ánh sáng đèn, nên khi bị chiếu đèn chúng không bao giờ bay đi.

    Mùa đông PL khá lạnh và nhiều sương mù. Loại sương mù ở đây rất dầy và thường ở là là sát mặt đất. Khi nhảy từ bên ngoài vào đám sương mù bạn có thể cảm nhận được “hạt” sương lạnh và ướt dính lên mặt (vùng nhạy cảm nhất còn ló ra bên ngoài quần áo) của mình. Lúc ấy, trên những tờ báo đã có phần truyện được minh hoạ bằng những bức tranh, tuy chỉ chừng chục tấm, bên dưới là nội dung truyện có liên quan, nhưng nó làm cho tờ báo có thêm nhiều đọc giả nhỏ tuổi. Hình như trẻ em thời nào cũng thích nhân vật Tề Thiên trong truyện Tây Du Ký. Thế là chúng tôi chọn nhảy vào những đám sương là là mặt đất tưởng tượng là đám mây, để còn ló được đầu ra, tay khum khum đặt trước trán, nghiên nghiên đầu quan sát, bắt chước cảnh Tề Thiên cân đẩu vân. Mà chúng tôi làm giống thật. Có những lần sương mù nhiều và dầy đến nỗi các lớp không học được do tối mờ và học sinh ngồi bên dưới không thấy rõ mặt cô, thầy. Trong trường hợp đó cô cho chúng tôi thi nhau đọc những bài học thuộc lòng, hay hát, chờ cho đến khi sương tan.

    Sách, truyện chỉ giữ chân tôi ở nhà một thời gian còn khi tôi lớn hơn, đã đi học, có nhiều bạn hàng xóm, biết ra tiệm bà Sáu mua cho gia đình những món lặt vặt, lấy báo về cho gia đình đọc … là tôi băt đầu tháp tùng các bạn đi chơi (Một phần cũng do không có truyện mới, có mấy quyển đọc mãi gần thuộc lòng. Hết truyện để đọc thế là tôi đọc cả quyển Cổ Học Tinh Hoa, sau mấy trăm lần cầm lên rồi để xuống. Không biết tôi có tiếp thu được điều gì từ quyển sách ấy?)

    Chúng tôi thường đi ngược con dốc trước nhà để lên phi trường Phước Bình vì nơi ấy tương đối gần, có phi đạo lót vĩ sắt rộng rãi, sạch sẻ và có những vật rất lạ. Lúc ấy phi trường Phước Bình có khi cả tuần chẳng có chiếc máy bay nào bay đến, và cũng chẳng có bảo vệ, hàng rào nên chúng tôi mặc sức chơi. Vật lạ đầu tiên là cây sào cao hơn chục mét, phía trên có treo một vật, khi gió thổi căng, trông giống như cái gối ôm. Rãi rác quanh phi đạo là rất nhiều vật giống như chuồng chó, dài khoảng 2 mét, cũng có 2 mái, một bên sơn màu trắng, bên kia sơn màu đỏ, chỗ cao nhất chỉ khoảng 4 - 5 tấc, tôi phải trườn mới vào bên dưới được. Sau này tôi được biết cây sào với cái gối ôm bên trên là dụng cụ chỉ hướng gió và giúp đoán vận tốc gió sát đất, còn những cái chuồng chó sơn trắng, đỏ là pa-nô đánh dấu phi đạo. Thế là sau khi chạy chơi chán tôi chui vào nằm dưới một cái pa-nô, ngắm cây sào chỉ hướng gió mơ mộng sau này sẽ làm phi công đi mây, về gió. (Cuối năm 1972 giấc mộng này suýt thành. Mọi tiêu chuẩn tôi đều đáp ứng tốt, trừ một tiêu chuẩn nhỏ nhưng nặng là trọng lượng, giấc mộng “cao xa” phải chia tay.)

    (Còn phần cuối)

  • #2
    Chú bên nhà đi làm muộn mang theo cái vali to. Có phải chú mang theo cái vali có đựng con cọp ???

    Ngày xưa còn bé KD cũng bị ăn thịt Cọp rồi. Người K.HO bẫy được con cọp đem ra bán cho người ta xẻ thịt, Mẹ mua về một miếng, khi nấu cậu bảo với mấy đứa cháu "ai mà ăn thịt cọp, tối về sẽ bị nó trả thù" thế là đến bữa cơm chiều mấy chị em không đứa nào dám ăn. Mẹ nói là cậu dọa thôi mẹ dỗ mãi cũng không ăn, cuối cùng bố bắt ăn, vừa ăn vừa mếu vừa lo, bà nội nói " thật dở hơi, nó chết rồi còn đâu mà trà thù". Người lớn còn bảo con Cọp khi nó bị quẹt lá tre là nó quên hết, xung quanh làng có hàng rào ấp chiến lược, ngay nơi cổng vô làng người ta trồng tre, Rừng Bảo-Lộc có tre mọc kín rừng thì cọp quên hết. Người lớn nói vậy cho trẻ con yên lòng hay sự thật là thế KD không biết.

    Lúc bé KD còn nhớ trong nhà mẹ để một cái thùng sắt tây (thùng đựng 20lít dầu hôi) rỗng và một cái dùi, mẹ bảo khi người nào thấy cọp vô làng người ta gõ thùng, người khác nghe tiếng thùng kêu lại tiếp tục gõ, cả làng gõ thùng, cọp sợ bỏ chạy. KD chỉ thấy và nghe nói vậy thôi mà KD chưa nghe gõ thùng bao giờ.

    Quê D ngày đó có nhiều thú rừng lắm, người ta đi rẫy khoảng bốn giờ chiều là mọi người lục tục khéo nhau về làng.

    Thân ái

    KimDung

    Comment


    • #3
      Chú nhà kế bên sau 1 đêm ngủ chung (vách tre) với cọp nên cuốn gói ra đi không lời goodbye.:cuoilan:



      Về thịt cọp có nhiều giai thoại lắm, chỉ nói cái mới thôi (thật ra mình nghĩ tất cả các bạn đều biết giai thoại nầy nhưng quên): Sau ngày 30/4 người nghèo khi đi lao động (thủy lợi chẳng hạn) sẽ được ăn thịt cọp.

      - Ăn cơm với muối gọi là "ăn cơm với thịt cọp trắng!"

      - Ăn cơm với muối sả gọi là "ăn cơm với thịt cọp xám!"

      Truyện cười về ông giáo già:

      Trong buổi ăn (bánh mì) sáng đám học trò kháo nhau về việc 1 con cọp về bắt gia súc của dân làng kế bên. Ông giáo nghe được bèn gom tất cả vụn bánh mì trên bàn đem rải quanh nhà. Các em học sinh chạy theo ngăn thầy lại:

      - Thầy ơi, không cần rải vụn bánh mì đuổi cọp đâu thầy. Từ trường mình đến đó cách những 20 cây số, mà em nghe nói con cọp đã bỏ đi rồi!

      - Các em thấy việc thầy làm hiệu quả không? (thầy tiếp tục rắc vụn bánh) Cách những 20 cây số mà thầy vừa rải vụn bánh con cọp còn phải sợ, phải bỏ đi!

      Chào KD và các bạn.


      Comment


      • #4
        Sợ vậy???? Ông này phải một phen hú vía. Cũng may cho ông là ông không mang tuổi hợi, KD nghe người xưa nói ai tuổi hợi đi rừng hay bị cọp vồ.

        Thân ái

        kimDung

        Comment


        • #5
          Đi phi cơ mới thấy hết những cánh rừng trùng trùng, điệp điệp của PL. Lúc ấy do tôi còn nhỏ, và cũng do có chiến tranh, nên không có điều kiện đi vào rừng chơi. Đặc biệt rừng PL có nhiều tre, nhất là loại tre rừng có thân thật to (đường kính gốc có thể lớn hơn 15cm), người dân gọi là lồ ô, được khai thác rất nhiều.

          Ở tỉnh PL có 2 vườn cao su lớn (phải nói rừng cao su mới đúng) là Thuận Lợi và Phú Riềng. Đồn điền cao su Thuận Lợi của hãng Michelin (Pháp) có khu nhà xưởng, văn phòng, nhà ở của chủ Tây với phi đạo riêng, đẹp như tranh. Đường đi từ Sài Gòn lên đến đây được trải nhựa, còn đường từ đồn điền Thuận Lợi trở lên thị xã PL trải đá đỏ. Người ta nói đó là do các chủ đồn điền hùn tiền làm đường nhựa, tiện vận chuyển cao su về cảng Sài Gòn để lên tàu chở sang Pháp. Đoạn đường còn lại đến thị xã đầy ổ voi. Có người biết chuyện nói lúc làm đường, nhà thầu thi công gian dối. Gặp chỗ đất trủng thay vì đổ đất đá lấp hố, để đỡ tốn công và vật tư, họ cho công nhân kéo cành, nhánh cây (vốn có đầy ven đường) bỏ xuống đấy rồi đổ đất, đá chồng lên. Sau vài năm cành, nhánh cây mục nát ra và tạo ổ voi.

          Đồn điền cao su Phú Riềng gần ngã ba Phú Riềng. Ngay tại ngã ba có bia kỷ niệm phong trào Phú Riềng Đỏ.

          Tỉnh PL dạo ấy không có vườn cà phê lớn quy mô vài trăm mẫu tây, mà chỉ có những vườn nhỏ. Tôi “dị ứng” với vườn cà phê là do lúc mới lên, khi đi ngang một vườn cà phê thấy trái chín đỏ trên những cành sà sát đất, đã dại dột hái ăn. Cạp trái đầu thấy ngọt bèn cạp tiếp trái thừ nhì thì bắt đầu cảm thấy buồn nôn, tiếp theo là chóng mặt, miệng chảy nước bọt… Kể từ đó tôi không bao giờ vào vườn cà phê.

          Một địa điểm để cư dân PL mang thức ăn, nước uống đến picnic vào cuối tuần là Vườn điều. (Trái điều ở đây còn được gọi là trái điều lộn hột do bên dưới trái có cái hột. Gọi như vậy để phân biệt với cây điều có lá và trái giống như cây mận, vốn được trồng rất nhiều ở các tỉnh Nam bộ, và ngươi dân vẫn hái lá điều để cuốn bánh xèo ăn. Ở trái điều lộn hột, phần thịt chúng ta ăn và vẫn gọi là trái thật ra là cuống trái phình to, là giả quả, còn trái thật chính là cái hột bên dưới.) Người biết chuyện nói Vườn điều là do tù nhân trại tù Bà Rá khi xưa trồng. Vườn điều nằm đối diện phi trường Phước Bình qua trục lộ chính nối liền quận Phước Bình và tỉnh lỵ Phước Long. Vườn rất rộng, với những cây điều cao hàng chục mét. Người ta để sẵn trong vườn thật nhiều sào tre để hái trái điều, vốn thường mọc trên cao. Trái điều khi chín có 2 màu, đỏ hay vàng. Sau nhiều lần vào Vườn điều chơi gia đình chúng tôi tìm thấy một cây điều có quả chín màu trắng đục, ăn rất ngọt và nhất là không bị gắt cổ, ho. Chúng tôi gọi đó là cây điều “nếp”, do màu trắng đục giống như gạo nếp. Sau này tôi có để ý tìm trái điều “nếp” nhưng không thấy, và cũng không ai biết về giống điều có trái với màu sắc và đặc tính như vậy. Có thể đó là cây điều biến dị cho trái bạch tạng (?). Có lúc chính quyền cho đấu thầu khai thác hột ở Vườn điều. Người được quyền khai thác sẽ cử người canh ở lối ra vào để thu hột. Người vào Vườn điều chơi khi mang trái ra khỏi vườn phải lặt hột để lại. Do lượng hột thu được không nhiều, sau này phải huỷ thầu.

          Heo rừng hay vào Vườn điều có lẽ là để ăn hột điều. Heo rừng đến đâu, cọp, beo đến đó (để rình bắt heo rừng, và sau cọp, beo là thợ săn!). Rừng PL có nhiều cây kơ-nia, người Kinh gọi là cây cầy. Có bản nhạc nhắc đến loại cây này là Dưới Bóng Cây Kơ-Nia. Đây là loại đại mộc có thể cao hàng chục mét. Cây cho trái to như trái xoài cà lăm nhưng thịt có vị rất chát. Hột bên trong cũng giống như hột xoài, vỏ hột có lông nhưng khi khô có thể cạy vỏ để ăn phần bên trong hột (2 tử diệp). Phần trong hột cầy có vị ngọt, bùi như của đậu phọng sống. Heo rừng rất thích ăn hột cầy. Gỗ cầy cầy mang đi hầm cho than rất tốt, cháy đượm chỉ thua than đước.

          Ty Canh nông PL có thành lập ven tỉnh lỵ một khu vườn mà dân địa phương gọi là Vườn Ươm Tổng Thống. Vườn được trồng toàn những loại cây ăn trái quý, hiếm. Ở tỉnh lúc ấy chắc không có người nào có mộng lớn như của Lã Bất Vi bên Trung quốc thời xưa, nên đúng ra phải nói là: Vườn Ươm (cho) Tổng Thống (ngự khi lên PL). Vườn Ươm Tổng Thống có chị em sinh đôi là vườn Phước Lộc Thọ ở khu cầu Vòng, Vĩnh Long. Sau đảo chính Tháng 11/1963 Vườn Ươm Tổng Thống bị bỏ hoang, người dân tha hồ vào vườn bứng những cây quý về trồng. Không biết số phận vườn Phước Lộc Thọ ở Vĩnh Long có khá hơn?

          Ngày nghỉ, nếu không đi picnic Vườn điều, cư dân PL có thể vào thác Đức Mẹ hay thác Mơ chơi. Thác Đức Mẹ cách tỉnh lỵ khoảng 5km và nằm phía bên trái đường. Sở dĩ gọi “thác Đức Mẹ” là do ngay tại ngã 3 đường dẫn vào thác, giáo dân PL có xây tượng Đức Mẹ Maria tại đây. Lễ khánh thành tượng được đức Cha Ngô Đình Thục, bào huynh đương kiêm tổng thống thời bấy giờ cất công từ Vĩnh Long lên chủ trì, cũng như làm lễ rửa tội và thụ giáo cho gia đình “tiểu thư” Phương Mai, cô bạn học xinh đẹp của tôi.

          Nằm phía bên tay phải đường và nhìn xuống thác Đức Mẹ là trường Trung học Nhất Linh. Trường có kiến trúc hình vòng cung, đẹp và độc đáo. Tôi đã học trường này. Đàng xa, sau lưng ngôi trường mang bút danh của nhà văn anh cả Tự Lực Văn Đoàn là núi Bà Rá. Không biết công trình này có còn tồn tại?

          Từ trường Nhất Linh đi thêm khoảng 3km là đến thác Mơ. Thác rất đẹp (người ta vẫn nói là đẹp như mơ mà) và hùng vĩ. Tại nơi thác tạo một vịnh nhỏ, nước chảy êm, chính quyền cho làm một nhà bè (nhà nổi) khá to, kích thước 6m x 20m. Nhà nổi làm thật đơn giản: Người ta đốn thật nhiều cây lồ ô (tre) rồi dùng dây mây cột chúng lại thành bè, sườn nhà cũng bằng lồ ô, mái lợp tranh; những vật liệu có sẵn quanh đó. Ai thích leo trèo đã có cái “chòi cu” cao 5 – 6 mét. Đứng trên chòi cu sẽ có tầm nhìn bao quát hơn về thác. Cách làm chòi cũng rất đơn giản. Chỉ cần chọn một cây có đường kính thân to và mọc ở vị trí thích hợp, đốn ngang thân cây ở độ cao thích hợp (tôi nhớ đường kính thân cây khoảng 1m, độ cao khoảng 5m), sau đó làm một chòi nhỏ bên trên, đại khái hình ảnh giống như Chùa Một Cột. Thác Mơ hơi xa, nhưng picnic ở đây rất tuyệt. Người dân mang theo cơm nếp hay bánh mì, thịt gà rô ti, ai biết uống bia thì mang theo nhưng nhớ đựng bia trong giỏ nylon, giỏ lưới để có thể cột dây ngâm xuống nước cho lạnh. Nước trong vịnh êm nên bơi hay tắm an toàn. Sau khi đã bơi mệt, lên được ăn no, uống thêm mấy chai bia rồi ngả lưng trên nhà bè nhấp nhô nhè nhẹ theo sóng nước, tai vang vọng tiếng ầm ầm của thác, đắm chìm trong bầu không khí mát rượi hơi nước, có nhiều người đã “đánh một giấc” cho đến chiều, khi thức dậy chỉ còn kịp cuốn gói ra về.

          Thấy được tiềm năng thuỷ điện to lớn của thác Mơ, sau khi công trình (bồi thường chiến tranh) thuỷ điện Đa Nhim hoàn thành, chính quyền thời bấy giờ đã mời một số chuyên gia Nhật ở lại nước ta, cũng như giữ lại toàn bộ kỹ thuật viên người Việt đã tham gia công trình này, để thực hiện công trình thuỷ điện thác Mơ. Tiếc là do chiến tranh công trình phải bỏ dỡ đến tận sau ngày đất nước giải phóng. Tôi còn nhớ trong một lần Tổng thống Ngô Đình Diệm lên thị sát thác Mơ, một người lính truyền tin hành quân đêm vượt thác chẳng may bị trượt chân. Nước chảy siết, máy truyền tin nặng, sự việc lại xảy ra trong đêm tối nên đồng đội không cứu được anh. Người ta cũng không tìm thấy xác của anh.

          PL có nhiều suối, những con suối ven thị trấn Phước Bình là nơi người dân lui tới nườm nượp vào những ngày cuối tuần trong mùa khô, vừa đi chơi, vừa để tắm, giặt (Sau này khi gia đình tôi vào sống trong thị xã PL thì không còn phải đi tắm suối vì tỉnh đã có nước máy). Đẹp nhất, theo tôi, là suối Nhà (máy chể biến) Mủ (cao su), gần Vườn Điều, nhưng tôi ấn tượng nhất là suối Đá, một con suối ven thị xã mà người dân thường đến đó chơi vì gần. Dạo ấy tôi có một người bạn học chung lớp, đồng hương Vĩnh Long và ở trong cùng khu phố. Tôi không nhớ tên bạn, chỉ nhớ tên gọi ở nhà của bạn là Ba Tàu. Trong nhà bạn thứ ba và có lẽ nét mặt của bạn có điểm giống như mặt của người Ba Tàu (Hoa). (Tôi còn nhớ thầy dạy Sử nói đó là cách nói vắn tắt của “người đi trên ba chiếc tàu”, những quan lại nhà Minh chịu không nỗi sự áp bức của nhà Thanh nên tổ chức trốn đi bằng đường biển. Họ đi trên 3 chiếc tàu đến Việt Nam, được chúa Nguyễn cho lưu trú, và cũng vì thế họ còn được gọi là khách trú [người dân nói trại ra là cắc chú] hay còn gọi là người Minh [ly] hương. Ngày nay người ta gọi boatman và immigrant; chữ có khác nhưng vẫn cùng khái niệm.) Lúc ấy ông nội của bạn ở Vĩnh Long (hình như là Ba Càng) lên PL thăm con, cháu. Sau khi ăn cơm chiều, ông dắt mấy anh em của bạn đi suối Đá chơi vì suối cách nhà không xa, chưa đầy 2km. Có thể do bạn hay chơi trò trốn để người khác tìm nên khi dẫn đám cháu ra về ông không chú ý đến việc thiếu bạn. Tối đó khi chuẩn bị đi ngủ (đã hơn 9 giờ tối) cả nhà mới phát hiện thiếu, thế là mẹ bạn sang hỏi tôi, cũng như những nhà hàng xóm khác có thấy bạn? Không ai biết thêm gì, thế là ba mẹ bạn tri hô lên, nhờ hàng xóm giúp. Ba của bạn và gần chục hàng xóm mang theo đèn pin đi đến suối Đá, nơi lúc chiều ông nội dẫn bạn đến. Đến nơi họ chia thành 2 nhóm, một nhóm đi ngược dòng suối, nhóm kia đi xuôi theo dòng để tìm bạn, vừa đi vừa lia ánh sáng đèn vừa gọi to tên. Họ đi như thế khoảng hơn 1 tiếng thì phải quay về vì đã quá khuya. Tối hôm ấy trời lại đổ mưa kèm theo sấm, sét. Sáng hôm sau Tỉnh tổ chức đi tìm bạn với quy mô lớn, có cả Cảnh Sát và chó nghiệp vụ. Họ tìm thấy bạn đã chết từ lâu do vỡ sọ. Có thể trong lúc đi lạc giữa rừng trong bóng tối, hay do sợ sấm sét, bạn hoảng sợ chạy và té đập đầu vào đá.

          Sau này, khi chiến sự bùng nổ, cũng tại con dốc dẫn xuống suối Đá có 1 chiếc A-1H rớt. Dốc dẫn xuống suối Đá ở ngay đầu một phi đạo dài chưa đến kí lô mét dẫn thẳng đến toà Hành chính tỉnh, và chỉ phi cơ loại nhỏ như L-19 hay L-20 là có thể đáp xuống được phi đạo ngắn này, nhưng phải vào ban ngày vì ban đêm không có đèn chiếu sáng. Chiếc A-1H không biết bị thương ở chiến trường nào và có lẽ ước tính không thể bay về đến phi trường quân sự Biên Hoà nên bay quần quanh không phận tỉnh lỵ xin đáp. Lúc ấy khoảng 7 giờ tối. (Phi cơ loại này đáp xuống phi trường Phước Bình được nhưng ban đêm thì không thể do không có đèn, mà cũng không an ninh.) Không biết thông tin, liên lạc thế nào mà phi cơ quần trên trời 8 – 9 vòng với tiếng máy rú thê thảm tỉnh mới hiểu ý cho xe hơi chiếu đèn soi sáng phi đạo. Phi công lập tức đáp, nhưng có thể do thiếu ánh sáng (hay người lái bị thương, không điều khiển phi cơ chính xác?), anh hạ thấp phi cơ quá sớm, vướng vào ngọn cây ven đường xuống suối. Phi cơ cháy, đạn còn lại trong phi cơ nổ… Người ta chỉ tìm thấy xương sọ của người phi công trong chiếc mũ bay.

          Ven thị xã PL có hồ Long Thuỷ. Hồ to hơn ao Bà Om ở Trà Vinh nhiều. Đây là hồ bán nhân tạo. Do PL là vùng cao, mùa khô thiếu nước sinh hoạt nên sau khi nghiên cứu, chính quyền cho xe ủi ủi đất đá chắn ngang một con suối nhỏ để tạo thành hồ Long Thuỷ. Khi tôi còn ở PL, chưa có đường vòng quanh hồ, và ven hồ vẫn còn rừng.

          Tôi vẫn mong có dịp quay lại Phước Long, nhìn lại núi Bà Rá, xem lại hồ Long Thuỷ, thác Đức Mẹ, thác Mơ, thăm lại những ngôi trường thân yêu nhiều năm gắn bó: trường Phước Bình, trường Phước Bình B, trường Phước Long, trường Nhất Linh. Nhất định.

          HẾT

          Comment


          • #6
            Cám ơn bài viết chứa đựng nhiều thông tin về những địa danh thân quen đầy ắp kỷ niệm. Chuyện anh kể về những người lính hy sinh thấy thương quá, thật khó mà biện minh cho chiến tranh.

            Comment

            Working...
            X