“Qua” và “Bậu” Trong Văn Thơ Miền Nam
Phan Tấn Tài
Phan Tấn Tài
“Qua”, “bậu” là đại từ xưng hô của lứa đôi đặc trưng của miền Trung và nhất là Nam Việt Nam. Cho dù ngày nay hai từ ngữ này không còn được thông dụng trong dân chúng miền Nam: từ “bậu” hầu như tuyệt đối không dùng nữa và từ “qua” còn được sử dụng một cách giới hạn. Nhưng trong thơ văn hai từ ngữ này vẫn còn được dùng và không giới hạn chỉ ở các văn thi sĩ vùng Đồng Nai – Cửu Long. “Qua” và “bậu” trong văn thơ được dùng với nghĩa rất thân mật.
“Qua” là đại từ, ngôi thứ nhứt, dùng riêng rẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi, ta (cô, chú, bác, anh, chị). Khi dùng chung với “bậu” nghĩa là anh, là cách xưng hô của chồng với vợ hoặc của người con trai xưng với người yêu. “Bậu” cũng là đại từ, ngôi thứ hai, nghĩa là người vợ hay người yêu hay người con gái được mến chuộng. Nghĩa cuối cùng trong thời kỳ lẽo đẽo đi chinh phục:
Bậu sang phà Rạch Miễu
Qua lẽo đẽo theo sau …
(Phải lòng con gái Bến Tre, Luân Hoán/Phan Ni Tấn)
Ngày xưa, từ “bậu” cũng được dùng gọi người con trai trẻ tuổi như trong hai câu trích từ Lục Vân Tiên. Không chỉ trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu mà trong bài vè “Bậu Lỡ Thời” (lời người cha nói với con trai).
Hai đại từ xưng hô “qua”, “bậu” đã ăn sâu vào đời sống của người dân phương Nam, chẳng những thường thể hiện trong ca dao mà còn trong văn thơ:
…Dân rằng:
„Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành“…
(Bậu ở đây là Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)
… Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên,
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh
Bậu lỡ thời như cánh chim bay,
Cánh chim bay người ta còn bắn …
(Bậu ở đây là người con trai cưng quá kén vợ. Vè Bậu lỡ thời)
… Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh cẩn với một cặp lục bình lớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi cười mà nói với mấy người kia:
- Mấy em về nói qua cám ơn ông Bá hộ nha! …
(Nhơn Tình Ấm Lạnh, Hồ Biểu Chánh (1925))
hay
Lời bà Cả nhắn với tên Hứa:
- Ông chủ sự dây thép tử tế quá. Em về nói qua cám ơn chủ sự nghe.
(Tại Tôi, Hồ Biểu Chánh (1938)).
Có dạo người dân, trong ý trêu cợt lối viết văn rặt Nam Kỳ, đặt câu sau:
„Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua“.
Người viết không có tham vọng nghiên cứu nguồn gốc của hai đại từ ấy mà chỉ đưa ra vài luận cứ đã có từ lâu.
Gốc của từ “qua“ theo Lê Ngọc Trụ là do chữ “wá” (hay đọc đúng hơn là u_á) đọc theo giọng Triều Châu của chữ “gã“ tức là “tôi“. Nguyên Nguyên có đặt cả sự liên hệ từ “qua” với tiếng Mường và tiếng Nhật. Bình-nguyên Lộc trong “Lột Trần Việt Ngữ” xếp hai đại từ “qua”, “bậu” là từ ngữ cổ Việt còn giữ lại nơi tiếng Mạ.
Bình-nguyên Lộc cho rằng người Việt phương Bắc quên hai đại từ ấy (BNL: …bởi BẬU chết, QUA chết, MÌNH cũng chết…), Nguyên Nguyên cho rằng đại từ “qua” bị bỏ mất đi (NN: Phía Bắc, sau khi quốc ngữ ra đời, bỏ mất lối xưng ‘Tôi’ bằng ‘Qua’ (Wa)).
Như vậy, Lê Ngọc Trụ cho “qua” từ tiếng Tàu mà ra, Bình-nguyên Lộc bám vào cổ Việt, Nguyên Nguyên hòa đồng hai khuynh hướng (cũng nên nhắc rằng Lê Ngọc Trụ là một trong 3 vị bị Bình-nguyên Lộc chỉ trích nặng nề về quan niệm ngôn ngữ và sử học trong một tác phẩm nghiên cứu của ông).
Ở đây có thể đặt câu hỏi rằng, phải chăng người phương Nam của sông Gianh đã do sự tiếp xúc với người Mạ mà còn xài hai đại từ trên (theo BNL) hay là vì đoàn người di cư cuối nhà Minh đã hòa đồng với người Việt và đã làm ta nhớ lại cổ ngữ (ít nhiều theo hướng LNT).
Làm nhớ lại cổ ngữ: Bình-nguyên Lộc đã có cho một thí dụ là chữ lẩu (canh) đã trở về với Việt Nam một cách “loạn xà ngầu” qua nhóm Triều Châu (có tác giả khác cho là qua nhóm Quảng Đông), thì “qua” và “bậu” cũng có thể không phải chỉ vì người phương Bắc quên đi mà vì người phương Nam nhớ lại qua sự trung gian của người Triều Châu. Nhóm này, tuy thành phần thấp hơn nhóm Quảng Đông, nhưng vì khả năng hội nhập cao (đại đa số người Hoa nhóm Triều Châu lấy vợ Việt ngay từ khi định cư đầu tiên và kể từ thế hệ thứ hai đã trở thành người Việt, đến thế hệ thứ ba họ là người Việt hoàn toàn) cho nên số từ ngữ Việt hóa theo giọng phát âm Triều Châu có thể cao hơn các nhóm Hoa khác.
Cứ chấp nhận lối giải thích giản dị của Lê Ngọc Trụ. Nếu “qua” đã là “tôi” từ âm Triều Châu thì “bậu” cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Tuy Bình-nguyên Lộc có đưa ra gốc từ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì trong tiếng Triều Châu „pa_u“ hay „pấu“ hay “bô” (giọng đọc khác nhau tùy vùng: Bạc Liêu, Nam Vang, Sài Gòn) là vợ, hoặc đàn bà, một danh từ bình thường không thuộc vào từ ngữ văn chương, và khi ghép vào một chữ nữa mới phân rõ ngôi thứ như „cha pấu“, „cha pa_u“, “chao bô” (vợ tôi) „deo pa_u“ (vợ yêu) như ta dùng Hán Việt “tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền thê …”. Từ ngữ ghép này chỉ là một danh từ ghép. Người Việt chung sống với người Triều Châu đọc trại là „bậu“ và “bậu” trở thành đại từ ngôi thứ hai.
Ở đây xin ghi vài sự khác biệt “qua”, “bậu”:
Qua:
Lê Ngọc Trụ: WÁ, (=TÔI) Triều Châu, từ của người lớn tuổi xưng hô thân mật với người thuộc vai em cháu.
Bình-nguyên Lộc: TƯA, (= TÔI) từ của một phụ chi của Mạ, dùng để tự xưng với vợ hoặc người yêu, hoặc em út, như ANH.
Nguyên Nguyên: ‘tiếng Nam Bộ’, tiếng Hải Nam (Wa), Triều Châu (Gua), và âm tương tự tiếng Mường: Qua (Wa) và Ha…. Những người di dân về phía Nam, đã giữ lối xưng Wa, xưng ‘tôi’ đó – và ngày nay ta thường lầm đó lối nói người Nam Bộ. Phía Bắc, sau khi quốc ngữ ra đời, bỏ mất lối xưng ‘Tôi’ bằng ‘Qua’ (Wa).
“Qua” (ngôi thứ nhứt) trong âm Triều Châu dùng tự xưng với mọi cấp bực, không có ý nghĩ thân mật: người lớn xưng với cấp dưới hoặc cấp dưới xưng với người lớn đều dùng “wá” (u-á, gua). “Tưa” trong tiếng Mạ cũng không khác nghĩa với tiếng Hoa âm Triều Châu nghĩa là Tôi. Dù BNL không giải thích rõ, nhưng nếu TƯA là TÔI thì đồng nghĩa với WÁ của Triều Châu, tức dùng tự xưng với mọi cấp bực.
Trong tiếng Việt phương Nam mới được xác định:
1) từ xưng của cấp trên với cấp dưới trong nghĩa thân mật (cô, chú, bác, anh, chị) hay từ xưng của người có địa vị cao với người ở vào bực thấp trong xã hội như trong hai thí dụ của Hồ Biểu Chánh ở trên; người xưng “qua” thuộc cả hai giống đực và cái.
2) “anh”, dùng xưng hô với vợ, với người yêu, với người con gái trong thời kỳ tán tỉnh.
Bậu:
Bình-nguyên Lộc: BAU, Mạ, dùng để gọi vợ, như EM ngày nay. Nhưng BAU của Mạ còn có thêm nghĩa là CƯỚI.
(Không tìm được sự đề cập của đại từ nầy của Lê Ngọc Trụ và Nguyên Nguyên).
Âm Triều Châu: pa_u, pấu, bô; nghĩa là vợ hoặc đàn bà, không phân biệt ngôi thứ, chỉ khi dùng từ ghép mới xác định, không nhứt thiết có nghĩa thân mật.
Trong tiếng Việt phương Nam, “bậu” luôn luôn ngôi thứ hai (nữ) với nghĩa là mình, em yêu, nàng (người con gái ở thời kỳ tán tỉnh), luôn luôn với ý nghĩa thân mật. Và ta vẫn gặp trong văn chương đại từ “bậu” dùng để gọi một chàng trai trẻ như hai thí dụ kể trên. Không chỉ là vợ hay đàn bà như trong tiếng Mạ hoặc tiếng Hoa giọng Triều Châu.
Từ những từ ngữ Hoa hoặc Mạ với một ý nghĩa rất thông thường như mọi từ ngữ khác, khi được Việt hóa, “qua”, “bậu” trở thành những từ ngữ của tình cảm, của thương yêu, của lứa đôi với nghĩa chính xác và súc tích. “Qua”, “bậu” tiêu biểu cho ngôn từ Việt hóa ở phương Nam. Từ ngữ Việt hóa gốc Hoa phần nhiều được sử dụng giới hạn ở phương Nam là vì điều kiện chung sống, hội nhập nơi đây.
Mặc dù số từ ngữ Việt hóa (từ Hoa ngữ, từ Miên ngữ) rất nhiều nhưng đi vào ca dao và văn chương mạnh mẽ nhất có lẽ là hai từ “qua” và “bậu”.
Trong ca dao miền Nam, những bài có từ ngữ „bậu“ chiếm giữa 2 – 3 phần trăm. Nếu ta lưu ý với hàng trăm, hàng ngàn đề tài của ca dao thì số lượng này rất cao. Một sự tình cờ: Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài ra 4 câu đố bằng ca dao vào dịp trung thu 1955, trong đó có 2 bài ca dao có chữ “bậu” (Qui Tâm: „Dưới bóng cờ cứu khổ“). – Hộ Pháp Phạm Công Tắc có thông lệ ngày hôm sau những dịp đại lễ đến bao lơn đền thánh đưa ra câu đố để tín đồ tụ họp ở Đại Đồng Xã tìm giải đáp -
Theo thời gian, hai từ “anh, em” thay cho “qua, bậu” trong xưng hô lứa đôi. Dù cho một số người cầm bút hoặc vì nuối tiếc hoặc vì tìm thấy trong hai từ đó một ý nghĩa thi vị nên vẫn còn sử dụng trong nhiều sáng tác sau này, nhưng nếu muốn tìm lại dấu vết quê hương phương Nam liên quan tới hai từ này thì không gì hơn bằng cách tìm trong ca dao hoặc văn thơ của một số văn thi sĩ miền Nam. Chính ở đây mới có hương vị thực sự của “qua, bậu” của thời khai phá vùng đất mới.
Từ “qua” tuy được dùng xưng hô một cách thân mật nhưng không “thân mật“ một cách đa dạng như từ “bậu”. Sau đây vài thí dụ trong những bài ca dao đã sưu tầm:
1. “Bậu” trong tâm tình nhớ thương:
Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng
Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Bướm xa hoa bướm lại dật dờ
Anh xa xôi bậu đêm chờ ngày trông.
(Hòn Kẽm: địa danh miền Trung)
Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời,
Canh hai vật đổi sao dời,
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung.
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai
Canh tư hạc đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
2. “Bậu” trong trách móc:
Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?
3. “Bậu” trong trêu chọc:
Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con.
Bậu đừng lên xuống đèo bồng,
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.
4. “Bậu” trong sự hóm hỉnh:
Bậu để chế cho ai, xé anh một nửa,
Bậu để chế cho chồng, châm lửa đốt đi.
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Chiều nay qua phản hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông.
Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập hoặc nhớ lại, “qua“, “bậu“ đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tích hơn và ngôi thứ được xác định rành rẽ hơn từ gốc (Hoa, Mạ). Hai đại từ này phổ biến giới hạn ở vùng đất Phương Nam, vì ở đây số người Việt và người Hoa hầu như tương đương nhau trong thời di dân lập ấp và người Mạ là chủ đất cũng còn đông đảo. Khi người Việt quay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập – đã đóng vai trò nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sống trong một vùng đất, là phương tiện viễn thông ngôn ngữ trong lịch sử hội nhập miền Nam – đã “chết” và đã trở thành dĩ vãng !
(Theo Tredeponline)