Announcement

Collapse
No announcement yet.

Trường Thi Động Hoa Vàng và Nhạc Phẩm Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng Bất Hủ - Tuấn Tôn 

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Trường Thi Động Hoa Vàng và Nhạc Phẩm Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng Bất Hủ - Tuấn Tôn 


    Click image for larger version  Name:	fetch?id=25442&d=1633750442.jpg Views:	0 Size:	1.05 MB ID:	25444




    Trường thi Động hoa vàng, gồm 100 đoạn 4 câu, làm theo thể lục bát cổ điển và được nhà xuất bản Cảo thơm in lần đầu vào năm 1971, khi bài thơ đến tay nhạc sĩ Phạm Duy, ông nghiền ngẫm rồi chọn ra khoảng 40 câu (trong 400 câu thơ trích từ khổ thơ thứ 7 đến khổ thơ thứ 41) để viết nên bài hát Đưa em tìm động hoa vàng mơ màng và sang trọng. Bài thơ đã nổi tiếng lại càng trở nên lấp lánh hơn qua những bản nhạc Phạm Duy phổ nhạc từ nhiều đoạn thơ hoặc ý thơ của Thiền sư Phạm Thiên Thư cùng với nhiều bài thơ khác của tác giả: Ngày xưa Hoàng thị, Em lễ chùa này…, khiến cái tên Phạm Thiên Thư cũng như thơ của ông nổi danh hơn từ đấy.

    Thọat tiên,công chúng biết đến những bài thơ tình này do một nhà sư có pháp danh Tuệ Không, tu tại Thiền viện Pháp Vân, Sài Gòn đã sáng tác. Mặc khác vào những năm 70 thời trước, tình hình chiến sự ở miền Nam đang leo thang ác liệt và tuổi trẻ ở miền Nam lúc này đang lạc loài,bế tắc, mất phương hướng về tương lai… nên những bài thơ lạ kiểu như Động hoa vàng là cơn mưa lớn, là bài ca siêu thoát, giữa xã hội và thời sự đảo điên, những lời thơ chấp chới cuốn người đọc vào một giấc mơ dài, kết nối nhiều hình ảnh thi vị của một trần gian xa cách,quê hương thanh bình, con người an vui… trong một xã hội thực tế đang loạn lạc của chiến tranh đau thương và mất mát.

    Cùng thời điểm này, tu sĩ Tuệ Không đã chuyển ngữ Kinh Phật Kim Cang ra thơ Việt, dưới tên Qua suối mây hồng (Kinh hồng) xuất bản 1971, kèm theo hai tùy bút văn xuôi, Ngã pháp mây nổi và Hiện hóa pháp, viết 1969, giúp người đọc hiểu thêm tâm tưởng Phạm Thiên Thư, hơn nữa những bài thơ vần điệu trầm bổng của hương vị lục bát cổ điển,những điển tích xưa cũ.. được thay đổi bằng các điển tích Việt với ngôn ngữ phóng khoáng làm cho thơ của ông gần gũi hơn với người đọc dễ thấm bằng những hương vị thuần Việt, dẫu rằng giai đoạn này việc sử dụng các giai điệu lục bát đã trở thành lạc lõng với xu hướng thi ca đương thời mất rồi.

    Có thể nói với hình ảnh của hoa vàng xuất hiện dày đặc trong thơ Phạm Thiên Thư, nó trở thành một biểu tượng xuyên suốt, một nỗi hoài niệm đâu đó ẩn nấp trong tâm tưởng của tác giả.

    Ông kể: “Năm 1942 khi cả gia đình còn ở xã Chi Ngãi, huyện Chí Linh (Hải Dương), bố tôi mua hẳn ngọn đồi Phượng Hoàng. Ký ức của tôi lôn lẫ khuất hình ảnh của hoa cúc dại vàng mênh mông, bát ngát chạy dài che khuất đường chân trời”.

    Năm 14 tuổi, ông theo mẹ di cư vào miền Nam, ngụ tại khu Tân Định. Sau khi học xong tú tài, Phạm Thiên Thư theo học Trường Phật học Vạn Hạnh và đắm chìm trong kinh,kê, Phật pháp như một cách giải thoát cho bản thân.

    Năm 1968, gia đình nhà thơ mua 400m2 đất ở cuối xóm rồi dựng căn gác nhỏ nhìn ra sông ở khu cù lao gần kênh Nhiêu Lộc, rồi ông xuất gia tại chùa Vạn Thọ cũng ở khu này,đây là lúc là lúc ông bắt đầu sáng tác thi phẩm Động hoa vàng với 100 đoạn thơ,mỗi đoạn gồm bốn câu thơ lục bát có sử dụng nhiều điển tích cổ và những hình ảnh thiên nhiên như hoa vàng,chim ,bướm… quanh khu nhà ông ở hiên lên bàng bạc rãi rác trong khắp bài thơ này.

    Trong một chừng mực nào đó, căn nhà nhỏ ở khu cù lao này chính là “động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư. Căn gác này là nơi ông đã tiếp xúc và gặp gỡ những người bạn văn thơ tri kỷ khắp các vùng và là nơi ông đã trải qua những năm tháng sáng tác rực rỡ nhất trong cuộc đời mình.“Căn gác gỗ của Phạm Thiên Thư rất thơ mộng, cửa sổ trổ ra ban công, nhìn về hướng mặt trăng, trang trí mây tre đơn giản và hòa hợp với thiên nhiên bốn mùa.

    Trong hồi ký của mình, Phạm Duy có kể khá rõ giai đoạn này, với việc gặp được thơ của tu sĩ Phạm Thiên Thư.Ông viết :

    “Thời đó, 1970, để phản ứng lại với cái “dung tục, trâng tráo” của xã hội, đã xuất hiện khuynh hướng “về nguồn, với con người Việt Nam, cây nhà lá vườn.”

    “Đối với tôi lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng, thật là mát mẻ và rất cần thiết …Gặp tu sĩ Tuệ Không kiêm thi sĩ Phạm Thiên Thư là tôi như thoát xác, vượt ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc ... Từ đó tôi luôn luôn tìm đọc thơ của Phạm Thiên Thư để phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại” “

    Thơ của Tu sĩ Phạm Thiên Thư đã được nhạc sĩ Phạm Duy mang phổ nhạc khá nhiều như : Động hoa vàng, Ngày xưa Hoàng Thị, Em lễ chùa này, Gọi em là đóa hoa sầu... .Dù trẻ hơn nhạc sĩ đến hơn đến 20 tuổi nhưng cả hai đã có mối tri kỷ từ những ngày đầu mới gặp. Giai đoạn Tu sĩ còn khoác áo nâu sòng, nhạc sĩ Phạm Duy vẫn hay ghé vào thăm. Họ cùng đàm đạo và nhiều lần chia sẻ những dự định, những trăn trở về đường sáng tác, về nỗi cô đơn trong cuộc đời.

    Đã nhắc đến “thơ hay” mà không khen tặng “nhạc tuyệt” thì cũng thật không công bằng với nhạc sĩ Phạm Duy (với việc mang thơ của Phạm thiên Thư ra phổ nhạc).Trong bài thơ “ Động hoa vàng” với 10 khổ thơ, hơn 400 câu thơ, ông đã nắm bắt hồn thơ rồi lược trích (Ý hoặc vài câu thơ và có dổi từ ) và đảo ý,đảo khổ thơ để biến bài trường thi Động hoa vàng với nhiều điển tích, những ý dài dòng trở thành một câu chuyện tình thi vị của một chàng trai hận tình,chọn đường khoa bảng để thành danh, rồi chán nãn với quan trường nên gát kiếm từ quan để “ Lên non tìm động hoa vàng nhớ thương ” qua những giai điệu ngọt ngào,tiết tấu chậm theo điệu Boston mơ màng ,uể oải mà sâu lắng.

    Người đọc, nhất là người nghe nhạc,luôn để ý đến những câu thơ tình như tình yêu trong thơ chỉ dẫn dắt cho sự hồi tưởng. Sắc màu của trang phục trở thành những điểm mốc của hoài niêm, của ký ức và thay đổi theo ánh sáng của tình yêu dĩ vãng. Trong “Four seasons “, để diễn tả được ánh sáng cũng sắc màu của bốn mùa thì nhạc sĩ Vivaldy đã phải chia làm bốn trường đoạn mới có được tác phẩm bất hủ nói trên nhưng trong những câu thơ của Phạm Thiên Thư thì Phạm Duy đã kết hợp nhuần nhuyễn ý thơ và màu sắc vào âm nhạc của mình để vẽ nên bức tranh sắc màu diệu vợi năm tháng trong mối cô tình của mình rất dân dã và mơ mòng qua ký ức của gã tình si. Tình yêu ở đây là mơ mộng, trắc trở, xa cách, nhớ nhung.

    Nhà thơ cũng đã “lẫn thẩn” với sắc màu ảo diệu của giai nhân rồi, qua tay nhạc sĩ thì người nghe bi đắm chìm sâu vào giai điệu, để rồi thính giả chẳng ai biết cô nàng mặc áo màu gì. Thậm chí nàng có thực hay không, hoặc nàng chỉ là ảo ảnh của thiên nhiên nhưng chắc chắn cô nàng phải là một hình ảnh đẹp và tinh tế đến độ chàng thà“ Lên non tìm động hoa vàng ngủ say ”

    Phạm Thiên Thư là bậc thầy trong việc sử dụng nhuần nhuyễn thể lục bát trong thi ca Việt nam và cũng bởi do sử dụng thường xuyên quá nên dù tứ thơ siêu thoát mà cũng không mới lạ so với những tác phẩm có trong tàng thư của thi ca cổ Việt nam nhưng đến sau này thì ít người sử dụng. Do đó Động hoa vàng khi xuất hiện vẫn làm mới thi ca có lẽ vì “Cái mới là cái cũ bị lãng quên” đi mất.

    Đọc “ Động hoa vàng” của Phạm Thên Thư dễ thấy có những câu,những đoạn ý thơ dàn trải, không có gì cao siêu nhưng lời thơ da diết chỉ vì những thì thôi, thế thôi, luyến láy, dằn vặt và những từ cổ như Rằng xưa,tà huy,mù sa,giang hà… .

    Đơn cử bằng từ “ Rằng thưa ”, câu nghe qua cũng bình thường, nhưng thực ra đó là lối nói lửng lơ( hư từ ) của người Việt, nó lại gợi ra một điều gì đó thật mông lung nhưng gợi cho người ta cái điều chú ý đi theo sau của cấu đó.Những câu”ỡm ờ” như vậy thường hay xuất hiện trong thơ của những người “hay chữ” hoặc dẫn người đọc vào một “mê hồn trận” phía sau nó.

    Bài thơ với tứ thơ tân kỳ, nhưng câu chữ “đân dã”,lời thơ ý nhị, dí dỏm, diễn tả được nhu cầu siêu thoát…,bài thơ được hiện đại hóa nhất là qua tay của “phù thủy” Phạm Duy ,tuy sử dụng âm nhạc bán cung Tây phương để thể hiện nhạc phẩm nhưng việc lồng ghép một cách tài tình ngũ cung miền Bắc vào những từ luyến láy do nhạc sĩ Phạm Duy đã “đo ni “ theo giọng hát của ca sĩ Thái Thanh (sẽ là người để thể hiện nhạc phẩm và lột tả được hết những phức khúc có trong âm giai của bản nhạc) bồng bềnh và bay bỗng trên những thanh âm của cảm xúc đang lan tỏa.

    Thời đại sau này nếu cho phép một ngôn ngữ mới, ngông nghênh, phóng túng hơn thì cũng phải thừa nhận vào những năm đó mà lời thơ và âm nhạc của Động hoa vàng đã đưa người nghe đến chín tầng cảm xúc và cẩn thận hơn ,Phạm Duy còn bỏ them vào tựa đề của bài hát hai chữ “ Đưa em “ nữa,tuy có dài dòng nhưng hoàn toàn đủ để tải ý thơ cuả Phạm Thiên Thư lẫn bản nhạc để cho người nghe đến đích một cách trọn vẹn.

    Để nhìn nhận rõ hơn tác phẩm này (cả thơ và nhạc), người nghe cần đặt nó vào thời điểm xuất phát. Khoảng 1970, chiến tranh lan tràn khốc liệt, xã hội đảo điên. Thịnh hành là lối thơ thân phận, nói lên tâm trạng, hoàn cảnh tang tóc, bi thương thế nên cả xã hội thời đó không ai làm thơ kiểu giỡn chơi, mơ màng và lãng mạn như Thiền sư Phạm Thiên Thư đã viết. Và không chỉ có bản trường thi này mà còn có cả một “Đoạn Trường Vô Thanh” với 3274 câu lục bát (hơn Đoạn trường Tân Thanh của Tiên điền Nguyễn Du đến 20 câu, giải nhất văn chương toàn quốc trước 75), là người Việt Nam độc nhất đã thi hóa 7 bộ kinh Phật bằng một ngôn ngữ thuần Việt để làm đề án tốt nghiệp đại học.

    Những câu thơ luc bát của tu sĩ Phạm Thiên Thư làm cho người đọc không nghĩ rằng ông đã có mười năm xuất gia tu hành nơi cửa Phật và dù là một tu sĩ làm thơ tình thì thơ của Phạm Thiên Thư không hề nhuốm màu sắc dục,vật dục… như những vầng thơ tình của các nhà thơ khác.

    Ở bài thơ này trong khổ thơ thứ 60,những câu thơ này dường như ám chỉ đến pháp thân của ông:

    “Hỏi con vạc đậu bờ kinh
    Cớ sao lận đận, cái hình không hư
    Vạc rằng thưa bác thiên thư
    Mặc chi cái áo Thiền sư ỡm ờ “

    Những năm tháng buồn tẻ ở miền Nam vào năm 70 này,như Phạm Duy đã kể trong hồi ký của mình, nhờ có thơ của Phạm Thiên Thư, Duy vượt qua được những chán chường và bế tắt của cuôc sống.. để cho công chúng sau này được nghe mười bài Đạo ca sâu lắng và thánh thiện cùng với những bản tình ca thi vị tuyệt đẹp mang hơi hướm của Phật giáo được người nghe đón nhận nồng nhiệt và mãi đến tận hôm nay vẫn còn nhiều thính giả nghe lại và yêu chuộng…



    https://www.sbs.com.au/language/viet...o-ng-hoa-va-ng
    Last edited by Hung Nguyen; 10-08-2021, 11:31 PM.
Working...
X