Cruising mùa Thu - Boston tới Québec
Bạn đọc thân mến,
Mùa Thu lại về trên những tàng lá phong ở vùng Đông Bắc của Mỹ quốc (New England), đem đến cái không khí se lạnh nhưng đầy sắc màu rực rỡ của Đất Trời. HT đi chuyến 'cruise' 10 ngày của Emerald Princess (EP) từ Boston thủ phủ tiểu bang Massachusetts tới thành phố Québec của Canada, inside stateroom, C745 deck 10 - aft (cuối tàu). Tàu dừng ở Portland - Maine của Mỹ, những bến còn lại thuộc Canada như St. John, Sydney, Halifax, Charlottetown, Saguenay và ở Québec một đêm trước khi xuống bến.
Emerald Princess
Từ Austin tới Boston đi points của Delta, nonstop, máy bay cất cánh lúc 7am và tới Boston khoảng 12 giờ trưa. Ra khỏi cổng arrival, chỉ vài bước là tới trạm bus Silver Line 1 (SL1), bus này đi từ phi trường Boston Logan tới trạm chót là South Station trong city center, free. Tuy vậy nếu đi từ city center đi ngược ra phi trường thì trả vài đô. Khoảng 10 phút thì SL1 tới, xe trống và có 'rack' cho mình để hành lý. Chỉ kẹt xe ở 'Sumner tunnel' vào thành phố chút đỉnh, khoảng 30 phút là tới South Station, từ đó đi bộ 15 phút là tới Hi Boston Hostel trong khu Chinatown và cách Boston Common chừng năm phút đi bộ. Chưa tới giờ 'check-in' nên HT bước qua đường có tiệm phở Pasteur, khá đông khách, mỗi đứa hối lộ bao tử một tô phở tái.
MA state capitol building ở Boston
Khách sạn gần Boston Common rất mắc, HI Boston Hostel cũng không rẻ như những hostel HT ở trước đây nhưng rẻ hơn các hotel gần đó. HT 'book' loại phòng riêng có toilet. Phòng ở hostel rất đơn giản, sạch sẽ, có thang máy, có nhà bếp và họ cho ăn sáng cũng rất 'basic' với bánh mì, trứng, mứt, trái cây, cafe, juice...có điều hầu như 'hostel' nào cũng có vị thế rất thuận lợi cho 'sightseeing' trong những thành phố lớn. (location, location, location).
Chiều đó HT đi lòng vòng trong khu Boston Common, anh H mua được áo 'jacket', được ghê, có $25 vì áo của anh nó tơi tả quá rồi (MA không tính 'sale tax' nên thấy nhiêu trả nhiêu).
HI Boston Hostel
Từ HI Boston Hostel tới bến tàu chưa tới hai dặm nhưng sáng đó trời mưa dữ quá, HT đi Lyft ra bến tàu. Lyft chở HT từ 'hostel' ngược ra phi trường, đi vòng lại vô phố rồi mới tới bến tàu, thấy lạ nên T hỏi tài xế cho chắc là ông biết đường tới bến tàu, nhưng ông nói xe phải đi vòng kiểu như vậy. Tới nơi khoảng 11am, mèn ơi người ta xếp hàng rồng rắn mà chưa được vô phòng đợi, tới hơn 12pm mới được vô. Nhiều người tới sau, xếp hàng tận ngoài đường mà mưa lớn, ướt chèm nhẹp. Từ nào tới giờ HT tới bến tàu khoảng 11am là vô chỗ lấy 'medallion' dễ dàng và nhanh chóng chứ không như bữa nay. Sau đó hỏi ra mới biết, thuỷ triều xuống thấp (low tides), tàu không load/unload hàng hóa, vali trễ. Sau đó mấy hôm, tới những bến khác của Canada và tới 'Reversing Falls' ở St. John mới hiểu thêm chút xíu về việc thuỷ triều cao thấp ảnh hưởng tới việc tàu cập được bến hay không.
Tới 1pm thì HT đi ăn trưa, Emerald Princess chuyến này gần đầy tàu, 3,200 khách: 2,400 Mỹ, 400 Canadian, còn lại là các sắc tộc khác, có rất nhiều người Hoa, người Việt trong chuyến này. HT có nói chuyện với vài người Việt, họ đi tới 50 người trong nhóm, mà có tới mấy nhóm. Phần lớn người Á Đông đi chung với bạn, rất nhiều bạn, họ hẹn nhau ở phòng ăn Lido, nói chuyện rôm rả suốt buổi. Một tối, lúc lơn tơn đi coi hát trên hội trường thì nghe có người kêu tên mình, hoá ra là anh chị họ của anh H cũng đi trong chuyến này, anh chị XT ở Houston và đi với bạn. Tàu có hai ngày 'at sea', nên hẹn đi ăn trưa với anh chị trên phòng ăn MDR, nói chuyện cũng vui. Nhân gặp anh, T hỏi thăm về xứ Nhật vì khi xưa anh du học bên Nhật năm năm. Sau tháng Tư 75, anh được qua Mỹ. Anh nói, may mà qua Mỹ mới có cơ hội được ngày nay, vì nếu ở lại Nhật, sinh viên VN rất khó cạnh tranh vì người Nhật rất siêng năng và chịu khó. Anh chị đã ngoài 70, mừng cho anh chị có sức khoẻ và thường đi đó đây với bạn.
Thức ăn trên tàu thì cũng như những chuyến Princess khác, HT ăn những gì họ bày ra, nhưng theo kiểu của mình. Điểm tâm T thường lấy cơm thịt kho trứng dưa leo, oatmeal với cá hun khói, sauteed mushrooms, bánh mì với trứng gà ốp la, cháo đậu hũ chiên, musli…đại khái là chọn sao cho hợp với khẩu vị của mình. HT không bao giờ đem theo đồ ăn khi đi du lịch hay lên tàu vì thấy nhiêu khê quá nếu họ xét. Sau vài ngày trên tàu, T thấy người Việt thường ăn mì gói mà họ đem theo, có lẽ đã ớn thức ăn trên tàu. HT không ăn ở MDR. Có hai hôm HT ăn trưa với anh chị XT ở MDR, mình xếp hàng 'first come first serve', không cần ghi danh trước như ăn tối. T thấy 'menu' của hai ngày đó cũng tương tự nhau, có điều họ làm đĩa thức ăn coi lịch sự đẹp mắt và có người phục dịch.
Văn nghệ buổi tối ở 'mainstage' rất hay nên tối nào HT cũng đi coi. Sau 'mainstage' là những buổi văn nghệ bỏ túi ở 'piazza', hay 'standup comedy' ở Club Fusion, nghe họ kể chuyện vui, tếu quá, cười đã luôn. Có chương trình ảo thuật của Nathaan Phan khá hay.
Bến đầu tiên tàu ghé vào là Portland thuộc tiểu bang Maine của Mỹ, HT đi con đường dọc theo bờ vịnh, khí trời mát mẻ, sau đó vòng về phố. Họ có xe lửa nhỏ, chở khách đi dọc theo bờ vịnh, nếu bạn đi bộ được thì không cần đi xe lửa vì cũng cùng đoạn đường mình đi bộ mà thôi, đường này chưa tới hai dặm.
Bến tiếp theo là Saint John thuộc Canada, tàu đậu rất gần phố, có điều St. John xây trên sườn đồi nên đường xá hơi dốc. St John nổi tiếng có Reserving Falls, chỉ cách phố khoảng hai dặm, có đường dọc theo dòng sông để tới đó dễ dàng.
...
Reversing Falls: nhờ tới đây mới biết thêm về thuỷ triều lên xuống ảnh hưởng đến sự đổi chiều của nước sông St John. Tại visitor center có bảng ghi ngày giờ về thuỷ triều lên xuống, bạn sẽ thấy được sự đổi chiều nước chảy tại đây nếu đến đúng lúc. 'Low tide' và 'hi tide' cách nhau khoảng 6 tiếng. Do sức hút của mặt trăng mà mình có thuỷ triều, nước ròng hay nước lớn. Có ba giai đoạn để thấy được Reserving Falls là lúc nước ròng, nước đứng và nước lớn. Cây cầu ở Reserving Falls là nơi thấy được hiện tượng nước chảy ngược này vì nơi đây dòng sông hẹp (gorge), nên dễ thấy hơn chỗ sông rộng.
Low tide (nước ròng): khi thủy triều từ biển rút xuống thì nước từ sông St. John sẽ chảy gần 500 dặm ra biển. Buổi sáng lúc HT tới Reversing Falls thì thấy nước chảy xoáy tròn trên mặt sông (whirlpool and rapids, water flow from river to sea). Đây là lúc thủy triều đang xuống.
Slack tide (nước đứng): sau khi nước rút xuống tới mức thấp nhất thì thủy triều đứng lại (không xuống nữa) và bắt đầu dâng lên, trong khoảng 20 phút này, nước sông bị thuỷ triều dâng lên nên không chảy ra biển được nữa và mặt sông sẽ rất lặng. Lúc này tàu bè có thể đi lại trên sông dễ dàng (flat calm, water stall)
Hi tide (nước lớn): Sau 'slack tide' thì thủy triều tiếp tục dâng cao, nước biển sẽ tràn từ vịnh Fundy (Bay of Fundy) đẩy nước sông ngược lại tạo nên sóng lớn trên mặt nước (waves, water flow up to river).
Sáng đó, HT lấy taxi ở bến tàu tới Reserving Falls 20CAD, 15 phút là tới. Ở Reserving Falls, bạn có thể theo 'trail' nhỏ đi xuống dòng sông gần đó và khu đồi kế bên để coi cảnh. Loanh quanh ở Reserving Falls khoảng một tiếng, HT qua cầu rồi đi bộ về phố, cứ theo con đường lát xi măng đỏ dọc theo dòng sông chừng hơn tiếng là về tới phố. Dọc đường cảnh đẹp và mát mẻ, có 'toilet', có chỗ trưng bày info nói về dòng thác chảy ngược này, về thuỷ triều, và nhiều info thú vị khác để du khách hiểu biết thêm về những điều lạ lùng của thế giới quanh mình.
Sau một ngày 'at sea', tàu ghé bến Halifax, bến này HT có tới khi đi chuyến 'cruise' mùa hè vừa rồi, đi quanh phố mấy chỗ chưa đi kỳ trước.
Bến Sydney thuộc Canada, phố nhỏ, dễ đi.
Sydney - Canada
Sydney - Canada
Mấy ngày sau, trời lạnh lẽo, biển động mạnh, tàu không ghé được Charlottetown - Prince Edward Island thuộc Canada, nhiều người tiếc vì nghe nói phố đẹp và có nhiều 'landmark' để coi. Ở Charlottetown, người ta thường 'book' tour đi tới 'Green Gables' vì cảnh đẹp và nổi tiếng nhờ quyển truyện 'Anne of Green Gables'. Hầu như đứa trẻ nào ở bậc tiểu học đều có đọc qua quyển truyện này. Sau này người ta quay thành phim, có ba phim nối tiếp nhau về cuộc đời của 'Anne of Green Gables', T và cô con gái rất thích bộ phim này, có dịp bạn tới thư viện mượn về xem.
Ngày tàu ghé bến Saguenay, trời vẫn còn u ám, mưa dầm suốt ngày, phố rất nhỏ đi dăm phút đã về chốn cũ. Họ có HOHO đi mấy chỗ xa phố hơn, nhưng HT nghĩ mưa gió suốt ngày, đi đâu cũng khó thấy đẹp, nên về tàu sau khi giày vớ bị ướt chèm nhẹp. Những lúc trong tàu thì ấm áp, còn ở bến hay đi bộ ở 'promenade' lúc nào quần áo cũng hai ba lớp vì lạnh và gió nhiều. May sao tới Quebec, trời nắng đẹp, tuy lạnh (35F-40F) và gió nhưng hết mưa.
Saguenay
Saguenay
Bến cuối cùng là Québec, tàu sẽ neo một đêm ở đây trước khi kết thúc chuyến đi. Buổi sáng, trên đường vào Québec, mùa Thu đang về, cây lá thay màu, cảnh hai bên bờ sông St. Laurent đẹp tuyệt vời. Emerald Princess (EP) hơi lớn nên đậu ở Wharf 30, chứ không đậu được gần phố như những chiếc 'cruise' nhỏ hơn. EP có 'shuttle bus' chở khách vào gần phố, từ đó đi bộ khoảng nửa tiếng là tới Old Québec (khu phố cổ), có điều đường rất dốc, leo cầu thang lè lưỡi.
Dù 'cruise' đậu xa hay gần phố, khách đều phải leo dốc hay lấy 'funicular' để lên khu Château de la Frontenac vì nó nằm trên đồi cao. Old Québec có hai khu, khu dưới thấp và khu trên đồi, cảnh trên đồi đẹp hơn và có nhiều chỗ để 'sightseeing', phần lớn khách sạn và tiệm ăn nằm ở khu trên đồi. Buổi tối ở Quebec, trăng tròn, to, đỏ rất đẹp, lên từ bên kia sông sau mấy ngọn đồi của Lévis Island. Tiếc lá máy chụp hình của HT không lấy được cảnh đẹp này. Còn những ngày cruising thì bình minh hay hoàng hôn, cảnh nào cũng đẹp, có lúc màu trời tím ngát thật đẹp.
Sáng cuối trên tàu, chỉ có 'carry on' nên 9am thì HT ra khỏi tàu, không thấy khám xét hành lý hay 'passport control exit' gì cả. Nhờ port có wifi nên HT lấy Uber tới Au Petit Hotel để ở Québec thêm vài ngày trước khi về nhà. Khách sạn này cách Château de la Frontenac chừng năm phút đi bộ. Gần đó có Citadel, City Hall, Parliament, nhà thờ, nhà ga và phố xá với những con đường rất dễ thương, chỉ cần cuốc bộ là tới. Kế bên Chateau Frontenac có visitor center, HT mua tour đi Montmorency Falls, Ste-Anne-de-Beaupré và Ile d'Orleans (5 tiếng, 65CAD), cảnh đẹp. Tiếc là họ cho có một tiếng ở thác Montmorency nên không đủ giờ để leo lên thác. Anh chị họ của anh H đi Uber tới thác nên có giờ leo lên thác (hơn 500 bậc thang, rất dốc). Bravo anh chị! À hôm đi tour, T học được cách phát âm chữ Québec từ tour guide (Kê-béc, thật giản dị). Gần Au Petit Hotel có tiệm VN, HT tới ăn cơm sườn ở Gạo Comptoir Vietnamien. Gần giờ đóng cửa, ông chủ ngồi nói chuyện vui lính tráng với anh H, làm T cười quá xá! Ông là người Đà Nẵng, kể chuyện vui về 'accent' (Bây giờ nhớ lại chuyện Bạch Đằng thành bật đèn, còn anh H nói chuyện băng bó thành bắn bỏ, ôi vui thì thôi).
Montmorency Falls
Nhà thờ Ste-Anne-de-Beaupré
Thế rồi cũng tới ngày về, HT lấy Uber tới phi trường Québec (rẻ hơn taxi chút đỉnh, taxi flat rate: cruise port tới phi trường hay city center tới phi trường 45CAD, hotel sẽ gọi dùm cho khách). Phi trường Quebec nhỏ nên không nhộn nhịp, không qua 'passport control'. Máy bay từ Quebec tới O'Hara Chicago cũng nhỏ (2x2). Tới Chicago, nhờ có Global Entry chỉ tới máy chụp hình là xong, nên qua 'passport control' rất nhanh,. Chuyến bay về Austin đúng giờ và suôn sẻ.
Bài viết này riêng tặng anh chị XT.
~ 0 ~