Ngoài việc sáng tác truyện ngắn, tôi thường ham thích đọc truyện ngắn. Không phải vì truyện ngắn vốn ngắn nên cho phép mình có thể đọc một lèo, thay vì đọc truyện dài có khi phải mất cả tuần lễ hay cả tháng trời, mà vì truyện ngắn có nhiều nét độc đáo không thể tìm thấy trong tiểu thuyết hay truyện dài..
Chúng ta có thể tạm ví von như thế này: Khoái cảm khi đọc một cuốn tiểu thuyết hay tựa như cuộc sống hạnh phúc của một cặp vợ chồng. Còn cái thú vị khi đọc một truyện ngắn hay tựa như những giây phút tuyệt diệu của một cặp tình nhân sánh bước bên nhau. Hai niềm hân lạc này hoàn toàn khác nhau: một bên ý nhị, đằm thắm và kéo dài. Còn một bên thì nồng nàn, tha thiết, tha thiết chẳng muốn rời xa.
Nhưng hạnh phúc lại mau chóng qua đi trong tiếc nuối. Vả lại đối với các nhà bình luận văn học và viết truyện ngắn chuyên nghiệp thì kỹ thuật viết tiểu thuyết và truyện ngắn hoàn toàn khác nhau. Văn của truyện ngắn có tính hấp dẫn ngay từ lúc mở đầu và không thể có chi tiết nào dư thừa, lạc lõng. Bút pháp của truyện ngắn có thể ví như dòng suối chảy thôi thúc. Bút pháp của truyện dài lại như dòng sông chảy lững lờ.
Ngoài ra truyện ngắn không có ý định đề cập đến cả cuộc đời của một nhân vật hoặc một giai đoạn lịch sử nào đó mà chỉ nhằm đưa ra một nét chấm phá của cuộc sống, một góc cạnh của cuộc đời khiến người đọc phải suy nghĩ, ngậm ngùi hoặc ray rứt như trong các truyện ngắn của John Steinbeck, Hemingway, Tchekop, Jane Joyce…
1. Truyện ngắn là gì ?
Theo hầu hết các Nhà nghiên cứu văn học thì truyện ngắn là một tác phẩm tướng tượng ngắn hơn một cuốn tiểu thuyết. Hầu hết truyện ngắn có thể đọc luôn một lúc. Truyện ngắn là một trong các thể loại lâu đời nhất của văn chương. Ngay từ kỷ nguyên 300. B.C., những câu chuyện đã được chép ra ở Ai Cập. Thánh kinh bao gồm những câu chuyện ngắn gọi là Parables dùng để dạy dỗ, đề cao luân lý, đức hạnh. Tại Ấn Độ, những mẩu chuyện đạo, thực chất là những truyện ngắn dùng để phụ giảng vào phần giáo lý rất thịnh hành dưới thời Đức Phật Thích Ca (500-400 B.C.)
Trong số những truyện ngắn cổ điển nổi tiếng phải kể đến hai tuyển tập xuất hiện vào thời Trung cổ. Đó là cuốn The Decameron (khoảng 1349-1353) gồm một trăm truyện của nhà văn nước Ý và cuốn The Cantebury Tales (khoảng 1385-1400) là một tuyển tập gồm 24 truyện ngắn của nhà thơ người Anh tên Geoffrey Chaucer. Bộ Liêu Trai Chí Dị (khoảng 1707 đời Khang Hy, Nhà Thanh) cũng là một tác phẩm xuất sắc của Trung Hoa.
Suốt thế kỷ 19, có rất nhiều nhà văn bắt đầu coi truyện ngắn là một thể chuyên biệt của văn chương. Edgar Allan Poe, nhà văn kiêm phê bình gia của Mỹ có lẽ là một tác giả đầu tiên phân tích và coi truyện ngắn là một thể loại văn học riêng. Trong một vài bài viết, ông đã chỉ rõ những xúc động mạnh mẽ của tình cảm con người như nỗi sợ hãi, sự ngạc nhiên có thể đạt tới qua truyện ngắn.
Cuốn sách đầu tiên bàn về truyện ngắn là cuốn The Philosophy Of The Short Story (1901) của Brander Mathews, một phê bình gia Hoa Kỳ. Cuốn sách này chuyên chở nhiều ý tưởng của Poe.
Các nhà văn viết truyện ngắn đã phát triển một số kỹ thuật văn chương trong đó phải kể lối kết thúc bất ngờ hoặc nhận thức trực giác (surprise ending and epiphany). Hầu hết lối kết thúc bất ngờ bao gồm một biến cố ngoài tiên liệu hoặc một sự giải thích để tiết lộ cho độc giả biết. Lối kết thúc này là đặc phẩm của O’Henry, một nhà văn chuyên viết truyện ngắn Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. ông đã sử dụng kỹ thuật này trong các truyện The Furnished Room (1904), The Gift Of The Magi (1905) và trong nhiều truyện ngắn khác. Còn nhận thức trực giác là một lời bình luận bất ngờ, một biến cố hoặc một biểu tượng có thể dùng bất cứ lúc nào trong câu chuyện để giải thích ý nghĩa của một diễn biến phức tạp. James Joyce, một nhà văn Ái Nhĩ Lan đầu thế kỷ 20 đã dùng kỹ thuật này trong các truyện ngắn của ông, trong đó có thể kể The Party (1888) và The Lady And The Dog (1899). Một số nhà văn về sau cũng bắt chước lối viết truyện ngắn này như các nhà văn Hoa Kỳ John Cheevor, John O’Hara và John Updike.
2. Những thành tố của một truyện ngắn (Bold):
Những thành tố của một truyện ngắn gồm: Nhân vật, bối cảnh, bố cục và chủ đề.
A. Bố cục: Là sự sắp xếp những diễn biến của câu chuyện sao cho mạch lạc, hợp lý để câu chuyện hấp dẫn người đọc và đạt được tác dụng lớn nhất. Những thuật ngữ dưới đây sẽ cho biết bố cục (plot) gồm những gì và tại sao :
a. Sự Phơi Bầy (Exposition) : Tức là phần nhập truyện. Trong phần này người đọc sẽ gặp gỡ các nhân vật (characters), nhận được bối cảnh (ở đâu và lúc nào? Hoặc không gian và thời gian của câu chuyện), đồng thời bắt đầu theo dõi biến cố hoặc những xung đột (conflict) xảy đến.
b. Đẩy Xung Đột Đi Tới (Rising action): Xung đột mỗi lúc một gay cấn hơn.
c. Điểm Bùng Nổ (Climax): Đây là điểm mấu chốt của câu chuyện. Đó cũng là điểm đột biến, là ngã rẽ của câu chuyện.
d. Xung Đột Giảm Dần (Falling action): Sau điểm bùng nổ, mọi diễn biến đi vào kết thúc.
e. Kết Cuộc (Resolution): Là sự kết thúc của câu chuyện.
B. Quan điểm (Point Of View):
Người viết ở đây được gọi là người kể chuyện hay người tường thuật (narrator). Trong truyện ngắn, ông ta có thể chọn lựa đứng ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Nếu đứng ở ngôi thứ nhất thì truyện được kể lại bởi một nhân vật trong truyện. Do đó, tác giả thường dùng những từ: tôi hoặc chúng tôi. Nếu đứng ở ngôi thứ ba thì tác giả sẽ dùng các từ: chàng, nàng, nó, ông ta, hắn ...
C. Văn phong (Tone):
Ngoài bố cục, văn tài của mỗi người viết truyện còn được đánh giá qua văn phong được hiển hiện qua biệt tài làm cho văn chương của ông ta mang những nét châm biếm, hài hước, buồn man mác, cầu kỳ hoặc lãng mạn ... Văn phong của một truyện ngắn hết sức quan trọng. Nó tựa như hương vị cà cuống của món bún thang, rau thơm và nước chấm của món chả giò, hương vị thơm tho của bát phở … mà thiếu nó thì truyện ngắn sẽ trở nên lạt lẽo.
3. Nhận xét chung về truyện ngắn :
Trong phần đề tựa cho ‘Tuyển tập hay nhất thế giới’ của Nhà xuất bản Bantam năm 1967, Roger B. Goodman đã viết như sau : ” Nhà văn viết truyện ngắn chẳng khác nào một người câu cá đang theo đuổi một con cá hồi (salmon) rất tinh khôn. Muốn thế, ông ta phải sẵn sàng, đĩnh đạc và khéo léo. Con cá hồi tinh khôn ở đây không ai khác hơn là độc giả, là đối tượng có thể bị ông ta dẫn dụ cắn mồi và dính câu. Dụng cụ đầu tiên trong đám mồi của ông chính là nhan đề của câu chuyện, phải làm sao cho hấp dẫn người đọc. Nếu không thì giống như những con cá già buồn bực, chỉ ngửi rồi bỏ đi.
Nhưng cũng không giống người câu cá, nhà văn viết truyện ngắn không phải chỉ đơn thuần tạo sự chú ý nơi người đọc ông ta phải nắm lấy sự chú ý đó đồng thời còn phải mua vui cho độc giả. Bởi vì nhà văn thường viết về những con người, về nơi chốn và về những biến cố bất hạnh, không mấy vui hoặc xấu xa, cho nên công việc của ông ta cực kỳ khó khăn.
Truyện ngắn là một thể loại văn chương rất phong phú. Không một tư tưởng tình cảm nào của con người, không một đề tài nào quen thuộc hoặc xa lạ với truyện ngắn cả. Tài năng của nhà văn viết truyện ngắn là tấn công một cách sâu sắc và trực tiếp vào cốt lõi các vấn nạn của con người. Bởi lẽ tác phẩm của ông ta là con mắt nhìn một cách mới mẻ và sâu xa, là bàn tay điểm tô một cách mỹ thuật và có ý nghĩa.
Ngay khi nhìn vào bộ mặt của cuộc chiến tranh, nỗi thù hận, sự bất công hay suy đồi, người đọc bị lôi kéo bởi cái nhìn của nhà văn, bị dính vào những hình ảnh của cuộc đời mà ông ta mô tả rồi hi vọng làm giàu thêm những kinh nghiệm của con người cũng như nghệ thuật mà trong đó ông ta có tham dự một phần.
Tìm một định nghĩa chính xác cho truyện ngán là điều vô vọng. Vì tính phong phú và đa dạng của nó, cho nên một số nhà phê bình đã cắc cớ nói rằng : Truyện ngắn là một truyện ngắn. Và đó là là định nghĩa khái quát rõ nét nhất. Trong thể tiểu thuyết cho chúng ta thấy cảnh trí một xã hội đủ loại các mẫu người, khi truyện ngắn chỉ giới hạn vào một số nhân vật, thường không quá ba người. Trong khi tiểu thuyết thường tường thuật (miêu tả) một khoảng thời gian dài cùng rất nhiều biến cố trong cuộc sống của các nhân vật rồi cho thấy sự phát triển, sự lớn lên, sự đổi thay, qua đó bộc lộ cho chúng ta thấy những chi tiết và chiều sâu của nó.
Còn truyện ngắn luôn chỉ là một kẽ nứt trên bức tường biến cố và nhân vật, một góc của cả một khu vườn tình cảm của con người, là nơi mà người ta liếc sơ, nhìn vội vào điểm đột biến (khúc quanh) của một đời người. Chừng nào người đọc cười hay khóc với những gì mà nhà văn thấy hay nghe , cảm thấy bàng hoàng hay vui sướng, hoặc cảm thấy nhẹ nhõm hay thất vọng rồi độc giả thông cảm và hiểu biết, chừng đó mới có thể nói nhà viết truyện ngắn đã thành công và người đọc đã được phục vụ đúng mức.
Đào Văn Bình
Chúng ta có thể tạm ví von như thế này: Khoái cảm khi đọc một cuốn tiểu thuyết hay tựa như cuộc sống hạnh phúc của một cặp vợ chồng. Còn cái thú vị khi đọc một truyện ngắn hay tựa như những giây phút tuyệt diệu của một cặp tình nhân sánh bước bên nhau. Hai niềm hân lạc này hoàn toàn khác nhau: một bên ý nhị, đằm thắm và kéo dài. Còn một bên thì nồng nàn, tha thiết, tha thiết chẳng muốn rời xa.
Nhưng hạnh phúc lại mau chóng qua đi trong tiếc nuối. Vả lại đối với các nhà bình luận văn học và viết truyện ngắn chuyên nghiệp thì kỹ thuật viết tiểu thuyết và truyện ngắn hoàn toàn khác nhau. Văn của truyện ngắn có tính hấp dẫn ngay từ lúc mở đầu và không thể có chi tiết nào dư thừa, lạc lõng. Bút pháp của truyện ngắn có thể ví như dòng suối chảy thôi thúc. Bút pháp của truyện dài lại như dòng sông chảy lững lờ.
Ngoài ra truyện ngắn không có ý định đề cập đến cả cuộc đời của một nhân vật hoặc một giai đoạn lịch sử nào đó mà chỉ nhằm đưa ra một nét chấm phá của cuộc sống, một góc cạnh của cuộc đời khiến người đọc phải suy nghĩ, ngậm ngùi hoặc ray rứt như trong các truyện ngắn của John Steinbeck, Hemingway, Tchekop, Jane Joyce…
1. Truyện ngắn là gì ?
Theo hầu hết các Nhà nghiên cứu văn học thì truyện ngắn là một tác phẩm tướng tượng ngắn hơn một cuốn tiểu thuyết. Hầu hết truyện ngắn có thể đọc luôn một lúc. Truyện ngắn là một trong các thể loại lâu đời nhất của văn chương. Ngay từ kỷ nguyên 300. B.C., những câu chuyện đã được chép ra ở Ai Cập. Thánh kinh bao gồm những câu chuyện ngắn gọi là Parables dùng để dạy dỗ, đề cao luân lý, đức hạnh. Tại Ấn Độ, những mẩu chuyện đạo, thực chất là những truyện ngắn dùng để phụ giảng vào phần giáo lý rất thịnh hành dưới thời Đức Phật Thích Ca (500-400 B.C.)
Trong số những truyện ngắn cổ điển nổi tiếng phải kể đến hai tuyển tập xuất hiện vào thời Trung cổ. Đó là cuốn The Decameron (khoảng 1349-1353) gồm một trăm truyện của nhà văn nước Ý và cuốn The Cantebury Tales (khoảng 1385-1400) là một tuyển tập gồm 24 truyện ngắn của nhà thơ người Anh tên Geoffrey Chaucer. Bộ Liêu Trai Chí Dị (khoảng 1707 đời Khang Hy, Nhà Thanh) cũng là một tác phẩm xuất sắc của Trung Hoa.
Suốt thế kỷ 19, có rất nhiều nhà văn bắt đầu coi truyện ngắn là một thể chuyên biệt của văn chương. Edgar Allan Poe, nhà văn kiêm phê bình gia của Mỹ có lẽ là một tác giả đầu tiên phân tích và coi truyện ngắn là một thể loại văn học riêng. Trong một vài bài viết, ông đã chỉ rõ những xúc động mạnh mẽ của tình cảm con người như nỗi sợ hãi, sự ngạc nhiên có thể đạt tới qua truyện ngắn.
Cuốn sách đầu tiên bàn về truyện ngắn là cuốn The Philosophy Of The Short Story (1901) của Brander Mathews, một phê bình gia Hoa Kỳ. Cuốn sách này chuyên chở nhiều ý tưởng của Poe.
Các nhà văn viết truyện ngắn đã phát triển một số kỹ thuật văn chương trong đó phải kể lối kết thúc bất ngờ hoặc nhận thức trực giác (surprise ending and epiphany). Hầu hết lối kết thúc bất ngờ bao gồm một biến cố ngoài tiên liệu hoặc một sự giải thích để tiết lộ cho độc giả biết. Lối kết thúc này là đặc phẩm của O’Henry, một nhà văn chuyên viết truyện ngắn Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. ông đã sử dụng kỹ thuật này trong các truyện The Furnished Room (1904), The Gift Of The Magi (1905) và trong nhiều truyện ngắn khác. Còn nhận thức trực giác là một lời bình luận bất ngờ, một biến cố hoặc một biểu tượng có thể dùng bất cứ lúc nào trong câu chuyện để giải thích ý nghĩa của một diễn biến phức tạp. James Joyce, một nhà văn Ái Nhĩ Lan đầu thế kỷ 20 đã dùng kỹ thuật này trong các truyện ngắn của ông, trong đó có thể kể The Party (1888) và The Lady And The Dog (1899). Một số nhà văn về sau cũng bắt chước lối viết truyện ngắn này như các nhà văn Hoa Kỳ John Cheevor, John O’Hara và John Updike.
2. Những thành tố của một truyện ngắn (Bold):
Những thành tố của một truyện ngắn gồm: Nhân vật, bối cảnh, bố cục và chủ đề.
A. Bố cục: Là sự sắp xếp những diễn biến của câu chuyện sao cho mạch lạc, hợp lý để câu chuyện hấp dẫn người đọc và đạt được tác dụng lớn nhất. Những thuật ngữ dưới đây sẽ cho biết bố cục (plot) gồm những gì và tại sao :
a. Sự Phơi Bầy (Exposition) : Tức là phần nhập truyện. Trong phần này người đọc sẽ gặp gỡ các nhân vật (characters), nhận được bối cảnh (ở đâu và lúc nào? Hoặc không gian và thời gian của câu chuyện), đồng thời bắt đầu theo dõi biến cố hoặc những xung đột (conflict) xảy đến.
b. Đẩy Xung Đột Đi Tới (Rising action): Xung đột mỗi lúc một gay cấn hơn.
c. Điểm Bùng Nổ (Climax): Đây là điểm mấu chốt của câu chuyện. Đó cũng là điểm đột biến, là ngã rẽ của câu chuyện.
d. Xung Đột Giảm Dần (Falling action): Sau điểm bùng nổ, mọi diễn biến đi vào kết thúc.
e. Kết Cuộc (Resolution): Là sự kết thúc của câu chuyện.
B. Quan điểm (Point Of View):
Người viết ở đây được gọi là người kể chuyện hay người tường thuật (narrator). Trong truyện ngắn, ông ta có thể chọn lựa đứng ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Nếu đứng ở ngôi thứ nhất thì truyện được kể lại bởi một nhân vật trong truyện. Do đó, tác giả thường dùng những từ: tôi hoặc chúng tôi. Nếu đứng ở ngôi thứ ba thì tác giả sẽ dùng các từ: chàng, nàng, nó, ông ta, hắn ...
C. Văn phong (Tone):
Ngoài bố cục, văn tài của mỗi người viết truyện còn được đánh giá qua văn phong được hiển hiện qua biệt tài làm cho văn chương của ông ta mang những nét châm biếm, hài hước, buồn man mác, cầu kỳ hoặc lãng mạn ... Văn phong của một truyện ngắn hết sức quan trọng. Nó tựa như hương vị cà cuống của món bún thang, rau thơm và nước chấm của món chả giò, hương vị thơm tho của bát phở … mà thiếu nó thì truyện ngắn sẽ trở nên lạt lẽo.
3. Nhận xét chung về truyện ngắn :
Trong phần đề tựa cho ‘Tuyển tập hay nhất thế giới’ của Nhà xuất bản Bantam năm 1967, Roger B. Goodman đã viết như sau : ” Nhà văn viết truyện ngắn chẳng khác nào một người câu cá đang theo đuổi một con cá hồi (salmon) rất tinh khôn. Muốn thế, ông ta phải sẵn sàng, đĩnh đạc và khéo léo. Con cá hồi tinh khôn ở đây không ai khác hơn là độc giả, là đối tượng có thể bị ông ta dẫn dụ cắn mồi và dính câu. Dụng cụ đầu tiên trong đám mồi của ông chính là nhan đề của câu chuyện, phải làm sao cho hấp dẫn người đọc. Nếu không thì giống như những con cá già buồn bực, chỉ ngửi rồi bỏ đi.
Nhưng cũng không giống người câu cá, nhà văn viết truyện ngắn không phải chỉ đơn thuần tạo sự chú ý nơi người đọc ông ta phải nắm lấy sự chú ý đó đồng thời còn phải mua vui cho độc giả. Bởi vì nhà văn thường viết về những con người, về nơi chốn và về những biến cố bất hạnh, không mấy vui hoặc xấu xa, cho nên công việc của ông ta cực kỳ khó khăn.
Truyện ngắn là một thể loại văn chương rất phong phú. Không một tư tưởng tình cảm nào của con người, không một đề tài nào quen thuộc hoặc xa lạ với truyện ngắn cả. Tài năng của nhà văn viết truyện ngắn là tấn công một cách sâu sắc và trực tiếp vào cốt lõi các vấn nạn của con người. Bởi lẽ tác phẩm của ông ta là con mắt nhìn một cách mới mẻ và sâu xa, là bàn tay điểm tô một cách mỹ thuật và có ý nghĩa.
Ngay khi nhìn vào bộ mặt của cuộc chiến tranh, nỗi thù hận, sự bất công hay suy đồi, người đọc bị lôi kéo bởi cái nhìn của nhà văn, bị dính vào những hình ảnh của cuộc đời mà ông ta mô tả rồi hi vọng làm giàu thêm những kinh nghiệm của con người cũng như nghệ thuật mà trong đó ông ta có tham dự một phần.
Tìm một định nghĩa chính xác cho truyện ngán là điều vô vọng. Vì tính phong phú và đa dạng của nó, cho nên một số nhà phê bình đã cắc cớ nói rằng : Truyện ngắn là một truyện ngắn. Và đó là là định nghĩa khái quát rõ nét nhất. Trong thể tiểu thuyết cho chúng ta thấy cảnh trí một xã hội đủ loại các mẫu người, khi truyện ngắn chỉ giới hạn vào một số nhân vật, thường không quá ba người. Trong khi tiểu thuyết thường tường thuật (miêu tả) một khoảng thời gian dài cùng rất nhiều biến cố trong cuộc sống của các nhân vật rồi cho thấy sự phát triển, sự lớn lên, sự đổi thay, qua đó bộc lộ cho chúng ta thấy những chi tiết và chiều sâu của nó.
Còn truyện ngắn luôn chỉ là một kẽ nứt trên bức tường biến cố và nhân vật, một góc của cả một khu vườn tình cảm của con người, là nơi mà người ta liếc sơ, nhìn vội vào điểm đột biến (khúc quanh) của một đời người. Chừng nào người đọc cười hay khóc với những gì mà nhà văn thấy hay nghe , cảm thấy bàng hoàng hay vui sướng, hoặc cảm thấy nhẹ nhõm hay thất vọng rồi độc giả thông cảm và hiểu biết, chừng đó mới có thể nói nhà viết truyện ngắn đã thành công và người đọc đã được phục vụ đúng mức.
Đào Văn Bình