Announcement

Collapse
No announcement yet.

Sử dụng loại nhớt nào

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Sử dụng loại nhớt nào

    Mục đích chính của việc làm trơn động cơ là duy trì liên tục sự hiện hữu của một màng nhớt làm trơn mỏng trong khe hở giữa các bộ phận chuyển động của động cơ nhằm chống lại sự va đập và mài mòn của các bộ phận này dưới ảnh hưởng của lực, nhiệt và tác dụng hóa học.


    Nguyên tắc tổng quát của việc sử dụng nhớt làm trơn động cơ như sau:

    • Dùng nhớt lỏng cho máy còn mới để nhớt có thể dịch chuyển vào những khe hở còn rất nhỏ của các chi tiết máy. Chọn nhớt lỏng quá cũng sẽ gây khó khăn cho việc hình thành màng nhớt ở nhiệt độ cao, máy khua và tốc độ mài mòn tăng.

    • Dùng nhớt đặc hơn cho máy đã cũ để nhớt có thể duy trì sự hiện hữu trong những khe hở đã trở nên lớn hơn trước của các chi tiết máy. Chọn nhớt đặc quá sẽ gây khó khăn cho việc hình thành màng nhớt ở nhiệt độ thấp, khó khởi động máy và gây hao tốn nhiên liệu do các chi tiết chuyển động chịu sức cản lớn.

    Độ nhớt (viscosity) là khả năng chống lại sự chảy lỏng khi nhiệt độ gia tăng và là chỉ số quan trong nhất để đánh giá một loại nhớt xe nào đó.

    Khảo sát một loại nhớt tiêu biểu thông dụng như 10W-30, trong đó:

    • 10 chỉ số độ nhớt đo ở 0 độ F (Fahrenheit).

    • W viết tắt của chữ Winter (mùa đông).

    • 30 chỉ số độ nhớt đo ở 212 độ F.

    Như vậy nếu so với loại nhớt 20W-50 thì loại 10W-30 sẽ ít nhờn hơn ở nhiệt độ thấp là 0 độ F và ở nhiệt độ cao là 212 độ F.

    Đặc tính tổng quát cần thiết của nhớt làm trơn động cơ như sau:

    • Nhớt không đông đặc ở nhiệt độ thấp để duy trì khả năng luân chuyển (flow) cao.

    • Nhớt không quá loãng ở nhiệt độ cao để duy trì sự hiện hữu trong các khe hở.

    • Nhớt cần có độ bền nhiệt, độ nhớt không thay đổi quá lớn trong phạm vi thay đổi nhiệt độ của động cơ.


    Để nâng cao độ bền và tránh những hư hỏng bất ngờ có thể xảy ra cho chiếc xe đang sử dụng, cần để ý đến những nguyên tắc sau đây:

    • Khi xe còn mới, các nhà chế tạo thường khuyến cáo sử dụng loại nhớt 0W-20, 5W-20 hay 5W-30 cho những vùng có nhiệt độ trung bình thấp và loại 10W-30 đặc hơn cho những vùng có nhiệt độ trung bình tương đối cao. Nên xem sách hướng dẫn (owner’s manual) để chọn loại và số lượng nhớt máy phù hợp cho chiếc xe của mình.

    • Thay nhớt mới sau mỗi 3000 miles hay sau khoảng mỗi 4 tháng tùy theo xe được sử dụng nhiều hay ít. Nếu xe có đèn báo hiệu, cần thay nhớt ngay khi xe nổi đèn ‘maintenance’.

    • Dùng nhớt đặc hơn khi xe trở nên cũ và có các khe hở giữa các chi tiết máy lớn hơn. Nên thay đổi loại nhớt sử dụng từ 0W-20, 5W-20, 5W-30 hoặc 10W-30 lên 10W-40 hay đổi nhớt từ lỏng sang đặc hơn cho xe có mileage cao (khoảng 60,000 miles) để phù hợp với tình trạng làm việc thực tế của xe.



    Thay nhớt xe.

    Dấu hiệu của xe đã cũ thường là những vết nhớt để lại trên mặt đường sau khi xe đậu một lúc. Phần lớn nhớt thoát ra từ những vòng chận nhớt ở đầu trục máy (crankshaft oil seal) đã bị khô cứng, nứt nẻ và giảm tính chất đàn hồi. Trường hợp này, nhà sản xuất khuyến cáo sử dụng loại nhớt có độ bền cao (higher mileage oil), trong đó pha trộn những hóa chất có tác dụng bịt kín những khe hở nhỏ và có khả năng phục hồi tính chất đàn hồi của cao su. Tuy nhiên biện pháp tốt nhất vẫn là thay mới những vòng chận nhớt này.

    Trên thị trường hiện nay cũng có nhiều loại nhớt tổng hợp (synthetic oil) do được pha thêm nhiều chất phụ gia để có thể duy trì độ chảy lỏng ở nhiệt độ thấp, độ bền dưới tác dụng của nhiệt độ cao và các hóa chất phát sinh trong quá trình đốt cháy nhiên liệu. Các loại nhớt này đắt tiền nhưng có chu kỳ thay nhớt lên đến khoảng 5,000 miles hay 10,000 miles. Tuy nhiên không phải loại xe nào cũng thích hợp với các loại nhớt này, trên một quãng đường quá dài dù nhớt chưa bị hỏng nhưng cũng đã dơ bẩn sẽ làm tăng tốc độ mài mòn. Vì vậy, nếu không được khuyến cáo dùng nhớt tổng hợp thì chọn loại nhớt thường có chu kỳ thay thế ngắn hạn vẫn tốt hơn.

    Không có những dấu hiệu hư hỏng tức thời cho việc chọn sai loại nhớt làm trơn động cơ, nhưng về lâu về dài hậu quả này có thể là khá lớn mà điều dễ nhận biết nhất là xe giảm đi tính năng tăng tốc và sự hoạt động êm ái thường có.

    Hùng Nguyễn (72 CKO)



  • #2
    Câu hỏi của bạn đọc:

    Khi thay nhớt, có nên xúc rửa động cơ nếu nhớt xả ra quá bẩn hay động cơ đã quá cũ?



    Việc xúc rửa động cơ (engine flush) có thể được thực hiện trong quá trình thay nhớt, sau khi xả nhớt cũ và trước khi châm nhớt mới. Tuy nhiên đây cũng là một việc làm đã gây nhiều tranh cãi. Một số nhà chế tạo xe hơi khuyến cáo không nên áp dụng qui trình này vì những đệm kín (gasket) hay vòng chận nhớt (oil seal) của động cơ có thể không chịu được tác dụng của hóa chất dùng cho việc tẩy rửa. Ngoài ra dung dịch sử dụng còn sót lại đâu đó bên trong động cơ cũng có thể làm loãng đi lượng nhớt mới được thay vào. Nhiều hãng sản xuất nhớt cũng khẳng định là sản phẩm của họ đã được pha trộn với một thành phần nhất định chất tẩy (detergent) đủ mạnh để làm sạch các chi tiết máy, nên việc làm này sẽ không là cần thiết.

    Comment


    • #3
      Anh Hùng và các bạn đọc thân mến

      Có một vấn đề khá thực tế về nhớt xe chúng ta cần bàn ở đây là : số lượng tiêu hao của nhớt xe trong quá trình sữ dụng ( giữa 2 lần thay nhớt ) . Sự tiêu hao nầy do những yếu tố nào và tiêu hao như thế nào (%) thì được coi là bình thường , chấp nhận được cho những chiếc xe còn rất mới . Biện pháp khắc phục là gì ...

      Chúng ta hãy cùng nhau mổ xẻ vấn đề nầy .

      Cám ơn anh Hùng và các bạn

      NTT

      Comment


      • #4


        Bạn Toản đã nêu lên một vấn đề rất thực tế nhưng rất tiếc ít có người để ý đến vì đa số đã 'khoán trắng' việc thay nhớt xe cho thợ. Những người thợ này lại ít khi thông báo cho chủ xe biết đến tình trạng tiêu hao nhớt làm trơn mặc dù họ có thể biết được điều này một cách dễ dàng bằng cách so sánh lượng nhớt xả ra với lượng nhớt mới phải tay vào.

        Nhớt làm trơn động cơ tiêu hao trong quá trình sử dụng là một hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên khi lượng nhớt này vượt quá mức độ cho phép sẽ gây quan ngại cho người sử dụng vì nó phản ánh tình trạng làm việc bất thường của động cơ.

        Với các động cơ còn mới, lượng nhớt tiêu hao bình thường giữa hai lần thay nhớt (3,000 miles đến 5,000 miles) thường ít hơn nửa quart. Lượng nhớt này cũng sẽ tăng thêm khi động cơ cũ dần, khoảng một quart cho quãng đường 1,500 miles. Tuy nhiên sẽ khó có thể chấp nhận khi lượng nhớt tiêu hao đạt đến mức một quart cho khoảng 500 miles.



        Ba nguyên nhân chính gây hao nhớt:

        • Nhớt bị rò rỉ ra ngoài.

        • Nhớt bị đốt cháy trong buồng đốt và bị thổi ra ngoài.

        • Nhớt bị bốc hơi.

        Nếu nhớt có dấu hiệu rò rỉ nhớt ra bên ngoài (oil leak) phải siết chặt ốc vít, thay mới đệm kín hay các vòng cao su chận nhớt ở những vị trí cần thiết.

        Nếu nhớt tiêu hao bên trong động cơ do bị đốt cháy trong buồng đốt, muội than sẽ đóng nhiều trên đỉnh piston và bề mặt buồng đốt, ngoài ra khí cháy sẽ có màu xanh biển (blue). Nguyên nhân thông thường do:

        • Xét-măng (piston ring) mòn.

        • Thân xú-páp (valve) mòn.



        Có thể tạm dùng loại nhớt đặc hơn một chút để làm giảm tiêu hao. Nhưng tốt nhất là tháo rời động cơ để sửa chữa, kéo dài việc sử dụng như thế sẽ khiến cho bu-gi (spark plug) bị đóng chấu làm sai thời điểm đánh lửa (ignition misfire), gây ô nhiễm môi trường khi các oxygen sensor và bộ lọc khí thải bị hỏng.


        Nếu nhớt bị bốc hơi (volatile) quá mức dưới ảnh hưởng của nhiệt độ cao, hiện tượng hao nhớt sẽ không đi kèm với dấu hiệu rò rỉ hay động cơ thải khói xanh. Hơi nhớt di chuyển qua bộ thông hơi PCV (Positive Crankcase Ventilation) tạo nên muội than (carbon deposit) bám ở các xú-páp hút (intake valve) và bên trong đường ống nạp khí. Trường hợp này có thể thay loại nhớt làm trơn đang sử dụng bằng loại nhớt tổng hợp có khả năng chịu nhiệt độ cao hơn.

        Comment

        Working...
        X