Announcement

Collapse
No announcement yet.

TẢN MẠN NHÂN NGÀY ÔNG TÁO VỀ TRỜI

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • TẢN MẠN NHÂN NGÀY ÔNG TÁO VỀ TRỜI

    CHUYỆN TẢN MẠN NHÂN NGÀY ÔNG TÁO VỀ TRỜI

    (Tôn thất Tuấn )



    Một ngàn năm ‘Bắc thuộc” của lịch sử Việt nam đã làm cho đa số người Việt chúng ta quan niệm rằng tục cúng ông táo,ông công... là của người Hán du nhập vào Đại việt. Thậm chí rất nhiều học giả uyên thâm người Việt đã phát biểu khá nghiêm túc và viết thành nhiều bài khảo cứu để đăng trên một số tập san,báo chí trong và ngoài nước mỗi độ xuân về.

    Sự thật lại hoàn toàn ngược lại! Chính nền văn hiến Việt trải hơn 4000 năm huyền vĩ bên bờ nam sông Dương tử mới là nguồn gốc xuất phát của phong tục cúng ông Công, ông Táo vào mỗi dịp cuối năm âm lịch và bởi vì Việt nam với nền văn minh lúa nước nên việc chọn Âm lịch dựa vào hoạt động của con trăng cũng là điều dễ hiểu.

    Khi nền văn minh này sụp đổ ở nam Dương tử và bị Hán hóa trải hang ngàn năm, kèm với việc đồng hóa người Việt và đốt hết thư tịch cổ, xóa sạch những dấu vết cũng như những chứng cớ lịch sử (đập hết các bia dựng ở chùa, miếu, đình, xã..) đã làm cho thế hệ sau không còn tài liệu nghiên cứu và các thông tin bị lệch lạc dẫn đến ngộ nhận tục cúng Ông Công,ông Táo là do người Hán truyền dạy và ông bà chúng ta bị tiêm nhiễm theo...

    Nhân vật “Táo quân” trong truyền thuyết và văn hóa Việt:

    Hằng năm, cứ vào dịp Tết đến thì hầu như mọi gia đình Việt từ thành thị đến thôn quê theo phong tục lại làm lễ cúng Ông Táo về trời. Phong tục thuần Việt này đã có từ thời Hùng Vương dựng nước và còn giữ lại trong truyền thống văn hóa Việt đến ngày nay. Bẳng chứng gián tiếp cho điều này là từ thời Hùng vương thứ VI, vua Hùng đã chấm giải nhất cho hoàng tử Lang Liêu là người kế vị và bánh chưng bánh dày do hoàng tử Lang Liệu được đặc biệt dùng cúng tổ tiên trong ngày Tết. (Xin đọc cuốn Kho tàng truyện cổ tích Việt nam của Cố giáo sư Nguyễn đổng Chí đã viết)

    Qua đó, chúng ta dễ dàng suy ra rằng: Lễ Tết nguyên đán có từ thế kỷ XV BC - tương đương thời vua Bàn Canh của Ân Thương. Từ đó chúng ta dễ dàng đặt vấn đề với lễ cúng Ông Táo về trời liên hệ đến ngày giáp Tết phải là phong tục của người Việt từ thời xa xưa. Bởi vì, khi nền văn minh Họa Hạ khi tiếp quản được nền văn minh ở Nam Dương Tử đã Hán hóa những giá trị văn hóa Việt trong hơn 1000 năm và tiếp tục duy trì đến bây giờ, ở vùng đất cũ của Văn Lang xưa, khiến không ít người ngộ nhận tục cúng ông Táo của người Hán. Nhưng chính vì nguồn gốc tục cúng Ông Táo trong văn hóa Hán chỉ là sao chép lại từ văn hiến Việt. Nên nó chỉ là một tín ngưỡng thuần túy và không mang tính minh triết liên hệ với nội dung của nó. Ngược lại, truyền thuyết của dân tộc Việt với hình ảnh Táo quân "Hai ông, một bà" và nội dung của nó lại trùng khớp hoàn toàn về nội dung với những giá trị minh triết Đông phương của chính cái mà người ta gọi là có nguồn gốc Hán.

    Truyền thuyết có dấu ấn cổ xưa nhất về ông Táo còn lưu truyền trong văn hóa Việt (Kho tàng chuyện cổ tích VN-Nguyễn đổng Chí), xin tóm lược như sau:

    .."Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.

    Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.

    Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.

    Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Ngọc Hoàng cảm động trước mối chân tình của cả ba người, (2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái chết trong lửa nóng của họ, ngài cho phép họ được ở bên nhau mãi mãi bèn cho ba người hóa thành “ba đầu rau” hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa. Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ, phẩm hạnh của con người. Táo Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp".

    Cũng vì sợ rằng chuyện hai Ông,một Bà lâu ngày sẽ sinh ra lục đục nên Ngọc Hoàng phân công rõ ràng nhiệm vụ cho :

    Trọng Cao:Lo chuyện đất đai,gọi là (Thổ địa)

    Phạm Lang:lo chuyện trong nhà cứa,bếp núc ,củi lửa (Thổ công)

    Thị Nhi: Lo việc mua sắm,chợ búa.(Thổ kỳ)

    ( truyện Sự tích ông táo)





    Theo quan niệm cổ, người Việt chúng ta tin rằng hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong mỗi gia đình với Ngọc Hoàng và đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình.

    Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu của mọi người, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể. Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay ngựa chạy”) để làm phương tiện cho “Vua Bếp” lên chầu trời. Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ, nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ sinh sống.

    Càng tiến dần vào trong Nam thì tục cúng ông Táo về trời có một chút thay đổi. Nhưng lễ cúng Táo Quân ở miền Bắc với một nghi lễ không thể thiếu là Cá Chép là mang tính nguyên thủy hơn cả, điiều này chắc các anh chị nếu có xem qua các báo mang như VNexpress, Vietnamnet, Dân trí... chắc cũng đã biết rõ việc tranh nhau mua cá chép sống để cúng cho ông táo dịp 23 âm lịch và cũng theo lệ này

    (Do vậy mà gia đình nhà táo ở Úc đã quyết định để Táo Toản cưỡi cá chép qua Mỹ tham dự họp mặt thay vì mua vé Boeing cho Táo Toản đi Mỹ sợ rằng không đúng với vị thế của Táo quân Úc và sẽ không được khai thuế cuối năm )

    Ba ông Đầu rau trong bếp Việt xưa:

    Một trong những nét độc đáo khi tạo ba ông đầu rau để nấu bếp là khi nặn bao giờ người thợ nặn cũng lấy ngón tay ấn nhẹ vào giữa một trong ba ông này, tạo thành một vết lõm tròn. Và ông đầu rau có vết lõm đó bao giờ cũng đặt vào giữa. Bây giờ, bếp ga, bếp dầu ầm ầm. Xưa nhất cũng là cái kiềng ba chân bằng sắt phổ biến ở thành thị. Ông Đầu rau bằng đất dù ở vùng sâu, vùng xa cũng chắc không còn nữa. Huống chi một vết nhấn tròn giữa một ông đầu rau, chắc chẳng ai còn nhớ. Cho nên, điều mà người viết nói ở đây, may ra chỉ còn trong ký ức của những người cao niên, ở một miền quê xa xôi nào đó.

    Ý nghĩa của vết lõm này, chính là dấu hiệu của tính bao trùm mà tiếng Việt cổ ngày xưa gọi là "Cái'. Tức Táo bà. Trong bức tranh dân gian Việt mà các bạn thấy ở trên táo bà ngồi giữa hai ông thì trong quẻ Ly hào Âm cũng đứng giữa. Quẻ Ly thuộc Hỏa nên biểu tượng cho bếp cũng thuộc Hỏa. Thế nên, hình ảnh trong truyện dân gian "cả ba người cùng chui trong đống lửa" đấy chính là hình tượng của ba ông đầu rau trong bếp mỗi nhà.

    Cá chép-“con ngựa” của Táo quân:

    Một hình ảnh gắn liến với lễ Táo Quân chính là con cá chép. Tại sao về trời mà Táo quân lại cưỡi cá chép? Sao không phải là cưỡi chim? Ông cha ta có lầm lẫn gì không? Hoàn toàn không! Khi mà tổ tiên người Việt đã để lại cho hậu thế một nền văn hiến vĩ đại. Con cá chép thuộc hành thủy. Trong những di sản văn hóa phi vật thể là những bức tranh dân gian Việt chúng ta thấy trang đàn lợn với một lợn mẹ và năm lợn con. Đây chính là hình tượng của "Thiên Nhất sinh thủy - Địa lục thành chi". Chúng ta cũng thấy hình tượng này trong tranh cá chép làng Đông hồ: Một con cá mẹ với năm con cá con.

    Thiên nhất sinh thủy . Địa lục thành chi.

    Theo kinh dịch,con cá thuộc hành Thủy, còn ông táo thì thuộc hành hỏa. Thế nên trong hình tượng Táo quân cưỡi cá chép, chính là biểu tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị tế,quẻ thứ 64 trong kinh Dịch. Đây là quẻ cuối cùng kết thúc một chu kỳ 64 tư quẻ Dịch. Biểu tượng cho chu kỳ tuần hoàn của tạo hoá trong một năm đã kết thúc để chuyển sang một chu kỳ mới và mọi việc vẫn còn tiếp tục để một năm mới tốt lành. Đó là ý nghĩa của quẻ Vị Tế.

    Một điều cũng đang gây tranh cãi trong giới dịch học thế giới là việc những nhà nghiên cứu về dịch học,quái số,phong thủy và thậm chí nghiên cứu văn hóa... của Việt nam đã đưa ra những luận cứ để chứng minh kinh dịch là của người Việt nam cổ chớ không phải của người Trung hoa như giới nghiên cứu phong thủy,dịch học... của Trung hoa thường tự hào và nói chung người Việt chúng ta cũng dựa trên nhưng luận cứ khoa học cũng như những bằng chứng khá thuyết phục để phản bác và khẳng định.Về chuyện này, gia đình nhà Táo ở Úc sẽ hầu chuyện vào một dịp khác nếu các anh chị có hứng thú và muốn biết thêm về chuyện này.

    Ông Táo về trời, ngày 23 tháng chạp:

    Tại sao Ông Táo lại về trời lại là ngày 23 tháng Chạp mà không phải là ngày 30? Theo dịch lý Đông phương, ngày 23 này được cho là ngày Nguyệt Kỵ. Vậy Táo quân lại chọn đúng ngày này lên trời liệu có điều gì sai sót không? Sách cổ chữ Hán chỉ ghi nhận mùng 5, 14, 23 (âm lịch) là ngày Nguyệt kỵ và không một lời giải thích. Trong truyền thuyết dân gian Việt cũng như theo dịch học Việt thì cho rằng "Ngày đó còn gọi là ngày Hoàng đạo (những ngày vua vi hành,dân chúng phải kiêng ra đường”, đây là ngày rất tốt nhưng chỉ dành cho những người “Lớn mạng” nên chỉ có những người có quyền cao chức trọng mới được vi hành.Câu ca xưa mà chúng ta còn được nghe các cụ ngâm nga là: "Mồng năm,mười bốn,hăm ba

    Đi chơi cũng lỗ huống là đi buôn..." có lẽ cũng từ tích này.

    Tương tự ở Sài gòn-Việt nam chúng ta ngày xưa ,gặp khi thành phố ” thiết quân luật” thì chả ma nào dám ra đường cả, xớ rớ mà bị MP bắt thì sẽ có mặt ở Đồng đế hoặc Thủ Đức là cái chắc, ngoại trừ những nhân vật có sự vụ lệnh đặc biệt hoặc có quyền thế hoặc những gã si tình vô vọng mới dám ra đường...trong giờ Hoàng đạo này...

    Bộ đồ Ông táo và tại sao ông táo không mặc quần?:

    Bức tranh dân gian Việt ở trên vẽ ba vị Táo Quân, đều mặc quần nghiêm chỉnh, với những hàng chữ Hán phía trên. Bức tranh thờ ông táo (tranh giấy gió Đông hồ) hẳn được sáng tác kể hàng ngàn năm sau khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở miền Nam sông Dương Tử. Bởi vì, trong phong tục còn giữ lại được đến ngày nay trong dân gian Việt thì Táo Quân không mặc quần. Điều này cũng giống như hàng ngàn năm trôi qua, những con rối nước trong văn hóa dân gian Việt được vẽ cái vạt áo bên phải vậy. Hiếm lắm, trong kho tàng chất những con rối nước cổ bỏ đi, may ra còn những con rối xưa cài vạt áo bên trái. Vậy Táo Quân không mặc quần có ý nghĩa gì trong truyền thống Việt?

    Lịch sử Trung Hoa ghi lại: Chính cái quần là của các dân tộc phía Bắc Trung Hoa và không thuộc về y phục Hán cổ. Vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc, Triệu Vũ Vương mới đưa cái quần vào làm y phục chính thức của nước Triệu và y phục này thích hợp với các chiến binh trong các cuộc chiến liên miên giữa các quốc gia so với vải quây che phần thần dưới trước đó. Sau này chiếc quần mới phổ biến trong thất Quốc và do các chiến binh mặc và trở thành y phục của Trung Hoa. Người Việt, với tư cách là một nhà nước độc lập ở Nam Dương Tử, tất nhiên không thể tiếp thu một cách vô tội vạ y phục của các dân tộc phi Hán ở Phương Bắc Trung Quốc bổ sung vào y phục của mình mà không xem xét về tính thẫm mỹ,tiện dụng cũng như phù hợp với văn hóa của nước mình.

    Như vậy có thể thấy rằng: Phong Tục thờ Táo Quân phải có từ rất lâu, trước cả khi dân tộc Hán bị xâm nhập văn hóa mặc quần của các dân tộc phía Bắc này và còn giữ đến bây giờ.Do vậy nó phải có trước thời Vua Hùng Vương Thứ VI quyết định dùng bánh Chưng bánh dầy vào lễ Tết của dân tộc Việt. Còn nếu như thời Hùng Vương chỉ ra đời vào Thiên Niên kỷ thứ nhất trước CN và Tết Việt Nam là văn hóa Hán là chủ nhân đích thực của văn hóa Đông phương thì ông Táo Việt đã mặc quần như bức tranh dân gian sáng tác về sau này mà chúng ta đã nhìn thấy trong các dòng tranh Đông hồ.


    Táo Quân Việt không mặc quần:

    Qua sự minh chứng và phân tích ở trên, chúng ta cũng nhận thấy rằng: Đằng sau một phong tục cổ truyền của dân tộc Việt - tục cúng "Ông Táo về trời" là cả một sự minh triết liên quan chặt chẽ đến nền Lý học Đông phương của tổ tiên,ông bà chúng ta,những người Việt cổ. Có thể nói rằng: Không phải ngẫu nhiên mà có sự trùng khớp hợp lý gần như toàn bộ nhứng nét chính của phong tục cúng ông Công, ông Táo với những quan niệm có tính nguyên lý của Học thuật cổ Đông phương. Sở dĩ có sự trùng khớp hợp lý đến kỳ lạ này, chính vì nó là hệ quả của nền minh Đông Phương thuộc về nền văn hiến Việt được đưa vào cuộc sống văn hóa Việt qua phong tục cúng đưa "Ông Công, Ông Táo về trời".

    Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây. Khi chính chiếc mũ Ông Công, Ông Táo được bán đầy ở khắp kẻ chợ , thôn quê ngày nay lại là một hình tượng được cách điệu bằng giấy của chiếc mũ các vua Hùng trên trống đồng Lạc Việt. Sự pha trộn giữa lịch sử ,văn hóa và truyền thuyết này đã được nâng cao lên thành yếu tố tâm linh nên các Cụ phải gọi tên là “Bộ đồ thần” để con cái có tò mò khi không thấy chiếc quần của ông táo thì cũng cảm thấy huyền bí quá mà không dám hỏi thêm dù trong lòng còn đầy thắc mắc và nghi hoặc.

    Kỳ diệu thay nền văn hiến Việt.Hy vọng rằng lớp hậu sinh chúng ta sẽ không vội quên đi nguồn cội của thời Hùng Vương dựng nước mở đầu cho tập Việt sử (mà đôi khi còn là huyền sử) trải hơn 4000 năm văn hiến của một dân tộc “Châu chấu đá xe” hào hùng và bất khuất.

    Táo hải ngoại và nỗi buồn “Trăm năm cô đơn” (Thay cho lời kết):

    Chắc hẳn là nhà văn Gabriel Jose Garcia Marquez khi viết cuốn Trăm năm cô đơn đã không đọc được những lời than vãn này,hy vọng nếu nhà văn sống dậy thì sẽ đưa tình tiết này vào đoạn kết trong tác phẩm nay của Ông.

    Đêm 23, như lệ thường, các táo lên thiên đình để báo cáo chuyện gia đình cuối năm( giống như theo lệ thường, Táo Toản đại diện cho gia đình nhà táo ở Úc cưỡi "mercechép” về thiên đình dâng sớ cuối năm). Riêng các táo của các gia đình Việt ở nước ngoài đồng thanh tâu rằng họ cũng chẳng có chuyện chi để tâu cả vì rằng các ông nhà ngoài chuyện phải xơi Mc Donalds, KFC, Hotdog, Kebab... cho qua bữa thì cũng có lúc nỗi hứng bất tử rất mê ăn “Phở” ... do vậy các Táo ngoai đành phải nhờ ông táo của các thương hiệu đó (và cả các quán “Phở” được ưa thích) báo cáo thêm thì mới có chuyện để báo chớ chuyện trong nhà năm qua thì chắc cũng như năm trước nghĩa là phải Photocopy hay chắc cũng chỉ là “Bổn cũ soạn lại” mà thôi vì chắc hẳn cái bếp Việt ở nước ngoài không thể nổi lửa Ba bốn bữa một ngày như hồi còn trong nước để Táo có chuyện mà "Tám" với Ngọc hoàng trong dịp "Hăm ba ông Táo về trời"...

    Sydney, Ngày Ông táo về trời cuối năm Quý ngọ.

    Thay mặt Gia đình nhà Táo Úc châu

    Tuấn Tôn



  • #2
    Anh Tuấn Tôn mến.

    KDung rất thích đọc những truyền thuyết ngày tết . Ngày xưa Dung được bà Nội với Mẹ kể đi kể lại nhiều lần nhưng vẫn thích nghe, anh Tuấn Tôn có biết " thèo lèo, cứt chuột " không?. Hồi đó cứ tới ngày 23 Ông Táo "chầu Giời" là lũ nhóc tụi Dung được cậu Năm làm cho 1 mớ kẹo hằm bà lằng, nhiều nhất là kẹo mè đen,kể từ hôm được ăn thèo lèo là lũ nhóc đã thấy có tết rồi. Những ngày tiếp đó người lớn lo làm bánh, mứt, kẹo để đem biếu và dùng đãi khách trong 10 ngày Tết .KD thì nghĩ các cụ cho tụi nhỏ ăn trước mớ thèo lèo để chúng khỏi thèm lẻm ,thèm lem rồi bốc trộm những loại đặc biệt, nhà nào cũng từ bảy tới mười đứa con nó ăn vụng thì các cụ lo lắm nhỉ? Mà KD thắc mắc sao kẹo lại cứ phải màu đen? lại còn gọi tên là "Thèo lèo cứt chuột "nữa chứ. Ngày đó mải ăn thèo lèo nên cũng chẳng còn nhớ nhắc bà Nội kể chuyện thèo lèo ,cũng bởi vì cái tội ham ăn, mà bây giờ cứ còn thắc mắc hoài. Nay xin nhờ anh Tuấn Tôn giải đáp giùm nhá.

    Cám ơn anh Tuấn Tôn thật nhiều đó nha.

    KimDung

    Comment


    • #3
      Chị Kim Dung thân mến,

      Thiệt là bất ngờ khi nhận được câu hỏi dễ thương của Chị vì trước đây Tuấn cũng đã từng thắc mắc.Tuấn sẽ cố gắng kiến giải điều Chị thắc mắc theo khả năng hiểu biết của Tuấn.Thèo lèo _ cứt chuột thực ra là hai loại kẹo của người Triều Châu (Tiều) hay dùng vào lúc uống trà thư giãn và để cúng ông táo vào dịp cuối năm lúc đưa ông táo về trời.

      Khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh vào năm 1679 - 1680 thì Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thắng Tài bỏ nước chạy định cư tại Gia Định, sau đó là Mạc Cửu đến Hà Tiên.

      Nhóm “di thần nhà Minh” ở Việt Nam này lập ra 5 bang: Quảng, Tiều, Hẹ, Phúc Kiến và Hải Nam, nhưng đông nhất là 2 bang Quảng và Tiều. Người Quảng phần lớn là thương gia, mở tiệm nước, nhà hàng ở các thị xã và thành phố lớn. Còn số đông người Tiều thì ngụ cư bất cứ nơi nào có thể kiếm ra tiền.

      Người Tiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long sống chan hòa với cộng đồng người Kinh và Khmer, chủ yếu mở chành lúa, bán hàng xén, trồng rẫy. Họ lấy vợ người Việt, người Khmer, hòa nhập cùng các lễ tục của cộng đồng nhưng vẫn giữ nét văn hóa cổ truyền của dân tộc mình.

      Chữ Thèo lèo là do người Kinh ở nam bộ (sống quần cư với các cộng đồng khác ở nam bộ,như đã nói trên) đọc trại chữ từ tiếng Tiều gọi là Trà liệu có nghĩa là một thức nhấm đi cùng với trà (Thứ kẹo làm từ đường và mè đen sên lại) để uống nước trà vào mỗi buổi sáng ngồi tán gẫu.Còn món kẹo Cứt chuột thì làm từ đậu phụng xên với nước đường và bột bình tinh (huỳnh tinh) rồi nặn thành viên đem sao khô và nhuộm đủ màu cũng để dùng với trà (na ná như mức hột sen ở ngoài Bắc).

      Ngày 23 tháng chạp,ông bà ta thường cúng món này cho ông Táo vì quan niệm rằng để ông Táo về trời bẩm báo những chuyện ngot ngào với Ngọc hoàng ở trong nhà mà thôi (Có lẽ đây cũng là hình thức mua chuộc hoặc hối lộ ,một đặc tính khá "mạnh" ở người Việt chúng ta).Hơn nữa đây là thứ thức dùng (keo) rẻ tiền,dễ làm và hay có sẵn ở trong nhà nên nhiều gia đình vào ngày 23 âm lịch chỉ cần đặt dĩa thèo lèo -cứt chuột lên trang táo (bàn thờ ông táo) để cúng là cũng đủ rồi.

      Còn có rất nhiều những kiến giải khác nhau của các "cao thủ" như kiến giải của cụ Vương hồng Sển trong cuốn "Hậu giang-Ba thắc", hay kiến giả của nhà văn Bình nguyên Lộc ,Lê văn Lân ...trong " Bút khảo về Xuân"... nhưng Tuấn thấy kiến giải theo kiểu "dân dã" là hợp lý, đơn giản và dễ hiểu hơn cả.

      Thân ái.

      Comment


      • #4
        Sau một thời gian ẩn cư trên hoang sơn cùng cốc, bạn Tuấn Tôn tái xuất giang hồ với món quà lớn cho tất cả chúng ta, đó là một bài viết rất 'tới' về phong tục Việt Nam. Truyền thuyết và lịch sử đã được phối hợp khéo léo để giải thích những truyền thống tuyệt đẹp của dân tộc, cám ơn Tuấn nhiều. Please don't go hiding again !!!

        Nhân dịp Tết Giáp Ngọ sắp đến, từ Texas xa xôi gởi tặng Tuấn một chút quà của quê hương yêu dấu. 'Của ít lòng nhiều', mời bạn dùng qua vài miếng ' thèo lèo' (home made) cho đỡ nhớ nhà.
        :P

        Comment


        • #5
          Ô hô, kẹo đã về tới Úc !

          Nhăm nhăm, cái mắt bảo cái mũi thèo lèo đẹp lắm, cậu có ngửi thấy mùi gì chưa? Cái mũi bảo caí mắt mùi đường thắng, quện với mùi thơm của lạc rang, cái miệng nó bảo cái tay, rón trộm một cục màu hồng đi . Cái đầu nó bảo 2 đứa đừng hư, kẹo, người ấy chỉ biếu một mình anh Tuấn thôi, ăn vụng là xấu, nuốt vội coi chừng tắc nghẹn đấy.




          Thế là KDung tiu ngỉu, đứng nhìn mà nuốt nước miếng ,cái tai nó nghe ừng ực. Có ai thương KD với cho KD một cái thèo lèo đi, chỉ một cái thôi hổng lấy cả mâm đâu. Mẹ dặn ăn nhiều kẹo sún răng đấy.

          Thanks

          KimDung

          Comment


          • #6
            Cám ơn anh Hùng về món quà "Thèo lèo cứt chuột" quý giá mà anh đã cất công sục sạo tìm kiếm để gửi tăng cho Tuấn và Tuấn cũng đã chuyển cho gia đình nhà táo ở Úc (và gấp đôi với chị Dung) kèm theo lời thăm hỏi của Anh đến với anh chị ở Úc

            Tuấn gửi tăng Anh mấy câu thơ của Vũ hữu Định viết từ lâu lắc rồi:

            "Sẽ có một ngày em trở lại

            Mai kia mốt nọ biết đâu chừng

            Và có một lời em sẽ nói

            Giữ dùm nhau một chút hồn chung...!"



            Thân quý.

            Tuanton

            Comment

            Working...
            X