QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRUỜNG SA
RẠN SAN HÔ THIÊN NHIÊN VÔ GIÁ
Phạm văn Khang, 72KNN
RẠN SAN HÔ THIÊN NHIÊN VÔ GIÁ
Phạm văn Khang, 72KNN
================================================== ===
Vùng sinh thái bao gồm hàng trăm đảo nhỏ, bãi cát trắng, và những rạn sản hô vô giá là cơ cấu chính của ba quần đảo lớn nằm trong vùng biển Nam Hải. Rạn sản hô là thành phần chính yếu của các quần đảo này. Riêng quần đảo Trường Sa đã chứa đến 600 rạn san hô lớn nhỏ và là nơi trú ẩn của các loại cá và rùa biển. Câu cối sống thưa thớt trên quần đảo do tác động thường xuyên của các cơn bão nhiệt đới (monsoons). Tuy nhiên đây cũng là nơi sinh sống của các loại chim biển, và rùa biển xanh.
Các nhà khoa học giả trước đến nay đã nghiên cứu tìm hiểu nhiều và hệ thống sinh thái biển ở đây, nhưng còn rất nhiều điều con người chưa thể khám phá hết. Gần đây sự tranh chấp chủ quyền của các nước trong khu vực cũng làm ảnh hưởng không ít đến việc nghiên cứu sinh thái vùng này
=================================================
San hô là những sinh vật tương đối đơn giản, chúng tồn tại ở khắp các vùng biển nông cũng như sâu. Chúng là những cá thể hình trụ rất nhỏ (gọi là polyp) có hàng xúc tu ở trên đầu để bắt mồi trong môi trường nước và được xếp vào lớp san hô (Anthozoa), ngành động vật ruột khoang (Coelenterata) trong hệ thống phân loại động vật. Một số lớn san hô phát triển dạng tập đoàn và hình thành nên bộ xương chung. Cấu tạo một polyp Công cụ bắt mồi của san hô San hô có 3 nhóm chính là san hô cứng, san hô mềm và san hô sừng. San hô cứng có bộ xương bằng đá vôi
và thường tăng trưởng rất chậm, có loại chỉ vào khoảng 1 cm/năm. Điều đó có nghĩa là một khối san hô với đường kính khoảng 1 m có thể đã trải qua cuộc đời hàng thế kỷ. Khi san hô chết, bộ xương có màu trắng. San hô cứng được xem là thành phần chính cấu tạo nên rạn san hô.
Chúng chỉ phân bố hạn chế ở những vùng biển nông, ấm áp và cấu trúc đá vôi do chúng liên kết lại tạo thành rạn san hô. Tuy nhiên, chúng rất mảnh mai và có thể bị tàn phá do gió bão và neo tàu. Thế giới hiện có hàng ngàn rạn san hô, giới hạn phân bố của chúng chỉ ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trải dài từ khoảng 30o vĩ tuyến bắc đến 30o vĩ tuyến nam nơi mà nhiệt độ nước biển hiếm khi xuống dưới 18oC. Diện tích bao phủ rạn san hô lên đến 600 ngàn km2 . Sự khác biệt về hình thái, thành phần sinh học, tính đa dạng và cấu trúc phản ánh địa - sinh học, tuổi, phân vùng địa động vật và điều kiện môi trường. San hô sừng có thành phần đá vôi bao bọc lõi là vật liệu sừng và/hoặc đá vôi. Tập đoàn san hô sừng có dạng như những chiếc quạt hoặc cành cây mềm mại. Khi chết đi, cái còn lại là bộ xương màu đỏ hoặc đen hay trắng. Loại san hô này cũng sinh trưởng rất chậm. 17 San hô mềm tiêu giảm bộ xương bên trong và chỉ còn lại các trâm xương đá vôi nhỏ. Một số rất mềm dẻo đến mức đu đưa theo dòng nước. Sẽ không còn gì để lại sau khi san hô mềm chết đi. Các polyp và tảo (zooxanthollae) gắn trên nhánh xương san hô.
...
Hình thái rạn san hô co nhieu dang khac nhau. Ở những nơi mà tạo rạn tồn tại, kiểu phát triển của rạn tùy thuộc vào địa hình (độ sâu và hình dạng) của nền đáy, lịch sử phát triển địa chất của vùng và các nhân tố môi trường, đặt biệt là nhiệt độ và mức độ chịu đựng sóng gió. Như chúng ta đã biết, san hô tạo rạn chỉ sinh trưởng trong những vùng nước ấm, có chiếu sáng tốt và cần nền đáy cứng để bám vào.
Những yếu tố này hạn chế sự phân bố của san hô tạo rạn ở những vùng biển cạn đáy cứng. Bộ xương san hô đến lượt mình lại cung cấp nền đáy cứng cho sự phát
triển của nhiều san hô hơn và các sinh vật khác. Sự phát triển lên phía trên của cấu trúc rạn có thể cho phép san hô tiếp tục tăng trưởng lên vùng cạn hơn. Qua nhiều quá trình biến động của địa chất biển, đã hình thành các kiểu rạn hô khác nhau:
- Rạn riềm (fringing reef): rất phổ biến xung quanh các đảo nhiệt đới và đôi khi dọc theo bờ đất liền. Đây là kiểu cấu trúc được coi là đơn giản nhất với sự phát triển đi lên của nền đá vôi từ sườn dốc thoải ven biển, ven đảo. Do tồn tại ở gần bờ, bị ảnh hưởng bởi sự đục nước, nên chúng hiếm khi vươn đến độ sâu lớn.
- Rạn dạng nền (platform reef): là một cấu trúc đơn giản đặc trưng bởi sự cách biệt với đường bờ và có thể thay đổi lớn về hình dạng. Kích thước của chúng có thể rất lớn, đến 20 km2 chiều ngang. Lịch sử địa chất của chúng cũng rất khác nhau với nguồn gốc hình thành khá đa dạng.
- Rạn chắn (barrier reef): được phát triển trên gờ của thềm lục địa. Rạn chắn là cấu trúc rạn nổi lên từ biển sâu và nằm xa bờ. Một số vốn nguyên thủy là dạng riềm nhưng do vùng bờ bị chìm xuống hay bị ngập nước khi biển dâng lên.
- Rạn san hô vòng (atoll): là những vùng rạn rộng lớn nằm ở vùng biển sâu. Mỗi một đảo san hô vòng là tập hợp của các đảo nổi và bãi ngầm bao bọc một lagoon rộng lớn với đường kính có thể lên đến 50 km. Kiểu rạn này chỉ có ở vùng biển sâu nằm ở ngoài thềm lục địa.
Môi trường tự nhiên
Ánh sáng
Tất cả san hô tạo rạn đòi hỏi đủ ánh sáng cho quang hợp của tảo cộng sinh trong nội bào của chúng. Theo độ sâu, ánh sáng thay đổi rất nhanh cả về cường độ và cả về thành phần. Giới hạn này kiểm soát độ sâu mà san hô sinh trưởng. Các loài khác nhau có sức chịu đựng khác nhau đối với mức độ chiếu sáng cực đại và cực tiểu. Đó cũng là một nguyên nhân chính của sự khác nhau về cấu trúc quần xã rạn.
Trầm tích
Nhiều kiểu trầm tích khác nhau bao phủ trên và xung quanh rạn bao gồm vụn san hô thô, các loại cát và cả bùn mịn. Kiểu trầm tích trên rạn ở một số nơi nào đó phụ thuộc vào dòng chảy, sóng và cả nguồn gốc trầm tích. Ở gần bờ trầm tích chủ yếu được cung cấp từ đất liền qua vận chuyển của sông. Những trầm tích như thế có thành phần hữu cơ cao, dễ bị khuấy động bởi sóng và có thể giữ lại lơ lững trong nước một thời gian dài, làm đục nước và hạn chế độ xuyên sáng. Sự sa lắng của chúng có thể giết chết các sinh vật như san hô, hoặc làm nghẹt các polyp không đủ khả năng đẩy chúng ra.
Độ muối
Ít khi độ muối nước biển trở nên quá cao để ảnh hưởng đến quần xã san hô. Độ muối thấp có ảnh hưởng quan trọng và thông thường hơn đối với phân bố rạn và phân vùng san hô. Rạn không thể phát triển ở những vùng mà nước sông tràn ngập, đó là nhân tố chính kiểm soát san hô dọc bờ. Ảnh hưởng chính của độ muối lên phân bố vùng san hô là do nước mưa. San hô (a) (b) 19 nói chung có khả năng chịu đựng độ muối thấp trong một giai đoạn ngắn, nhưng khi mưa rất to cùng với triều thấp rạn có thể bị hại, thậm chí bị phá hủy hoàn toàn.
Biên độ triều
Mức chênh triều khác nhau giữa các rạn ở các vùng khác nhau. Sự khác nhau đó ảnh hưởng đáng kể đến sự phân vùng của quần xã san hô. Triều càng cao, ảnh hưởng của sự ngập triều và khả năng vận chuyển chất dinh dưỡng tương ứng cũng như ảnh hưởng đến sự bày khô càng lớn.
Thức ăn và các chất dinh dưỡng vô cơ
Cũng như những sinh vật khác, san hô đòi hỏi cả thức ăn và chất dinh dưỡng vô cơ. Thức ăn cũng có thể lơ lững trong nước biển như những mảnh nhỏ bao gồm cả sinh vật đang sống. Cũng như những nơi khác, trên rạn có những sinh vật ăn các sinh vật này và bị ăn bởi các sinh vật khác và như thế chuỗi thức ăn được hình thành, trong đó tất cả các động thực vật đều liên hệ với nhau. Khi quan tâm đến nhu cầu thức ăn của sinh vật rạn, một điều quan trọng là phải tách rời nhu cầu của một loài, nhóm loài với nhu cầu của toàn rạn, bởi vì để đạt được sự bền vững lâu dài cần có một cân bằng tổng thể trong chu trình dinh dưỡng của chúng. Rạn vừa tạo vừa tiêu thụ các chất dinh dưỡng, nhưng trao đổi với vùng biển xung quanh nhỏ so với vật chất sản sinh bên trong từ chu trình liên tục. Các dinh dưỡng đi vào rạn thường là từ sông, nhưng nếu không có sông, đối với các rạn ở xa đất liền, chất dinh dưỡng chỉ đến qua dòng chảy bề mặt.
Nhiều rạn có sự cung cấp dinh dưỡng vô cơ khác như là dưới một điều kiện nào đó, dòng chảy hướng vào rạn có thể làm cho nước ở tầng sâu chuyển lên bề mặt. Loại nước trồi này thường giàu phospho và các chất hóa học phân tử khác. Nhiều rạn có sự thay đổi theo mùa về nguồn dinh dưỡng, đặc biệt là những rạn có vĩ độ cao nơi mà ảnh hưởng các mùa rõ rệt hơn.
Nhiệt độ và độ sâu
Các yếu tố trên đây là tất cả phương diện chính của môi trường tự nhiên kiểm soát cấu trúc quần xã san hô. Một yếu tố quan trọng khác là nhiệt độ, nó giới hạn sinh trưởng san hô và phát triển rạn. Tương tự như vậy, độ sâu của một vùng kiểm soát chủ yếu hình dạng của rạn. 2.1.4
Các mối quan hệ trong quần xã Mỗi loài san hô có sự sắp xếp riêng về chiến lược sinh trưởng, nhu cầu thức ăn và khả năng sinh sản. Mỗi một loài cũng thích ứng riêng với sự tác động của bão tố, sinh vật ăn thịt, bệnh tật và sinh vật hại. Mỗi loài cạnh tranh với loài khác về không gian, ánh sáng và các lợi ích khác. Kết quả cuối cùng của tất cả các mối quan hệ và sự cân bằng làm cho quần xã san hô trở nên đa dạng nhất trong tất cả các quần xã trên trái đất. Với san hô những mối quan hệ cần được xem xét bao gồm: thức ăn, địch hại và sự cạnh tranh lãnh thổ giữa chúng với nhau.
Thức ăn
San hô tạo rạn có hai nguồn thức ăn chính: tự bắt mồi và các hợp phần hữu cơ được tạo ra và bài tiết bởi tảo cộng sinh Zooxanthellae trong mô san hô. Ngược lại, san hô cung cấp cho tảo nơi sống và các chất bài tiết như phospho và nitrat. Tảo đáp ứng cho san hô tới 80% nhu cầu 20 thức ăn tổng số của chúng. Những san hô sinh trưởng ở vùng nước nông trong suốt với độ chiếu sáng cao, thường có polyp nhỏ. Chúng có khả năng bắt các động vật nổi nhỏ. Một số san hô khác thường sống ở các vùng nước đục có các polyp lớn. Chúng không có bộ tế bào gây độc trên các xúc tu như bọn ăn sinh vật nổi. Nguồn thức ăn của chúng chưa rõ, nhưng có thể chủ
yếu là mùn bã hữu cơ. Hầu hết các rạn san hô tồn tại trong môi trường nghèo chất dinh dưỡng vô cơ như phosphat, nitrat và sắt nhưng chúng có năng suất xấp xỉ như rừng nhiệt đới. Các cá thể san hô và tảo cộng sinh Zoothanllae có thể hấp thụ chất dinh dưỡng từ đại dương xung quanh.
Tầm quan trọng của hệ sinh thái rạn san hô
Các rạn san hô đa dạng và tuyệt mỹ đã tham gia hình thành và bảo vệ hàng ngàn hòn đảo. Chúng cũng có tầm quan trọng ở nhiều đảo lớn và vùng bờ biển trong việc bảo tồn đất đai và sự tồn tại của con người. Rạn có ý nghĩa thật sự đối với cộng đồng cư dân ven biển ở các quốc gia vùng nhiệt đới. Do khác nhau về yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa, giá trị của rạn san hô được đánh giá khác nhau giữa các nước hoặc các cộng đồng. Đối với các cộng đồng kinh tế phát triển, rạn san hô được coi là tài nguyên về xã hội và văn hóa. Giá trị kinh tế được hiểu ở phương diện giải trí và du lịch. Các loài đặc sản trong rạn san hô cũng rất hấp dẫn nhưng không phải là thiết yếu. Nhiều cộng đồng như thế đã hỗ trợ cho chương trình nghiên cứu khoa học nhằm hiểu biết chức năng của các hệ rạn san hô và tổ hợp phức tạp này liên quan như thế nào đến môi trường biển và lục địa. Sau đây là những đặc tính của rạn san hô góp phần tạo nên giá trị về mặt xã hội và văn hóa và được coi là một nguồn lợi đặc biệt.
Năng suất sinh học
Các rạn san hô được coi là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao nhất trên thế giới. Chúng chiếm khoảng 0,1% diện tích bề mặt quả đất, nhưng nghề cá liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với rạn san hô mang lại khoảng 10% sản lượng nghề cá thế giới
Sức sản xuất của rạn
san hô cao là nhờ tính hiệu quả của chu trình chuyển hóa vật chất. Trong đó tảo cộng sinh Zooxanthellea, tảo có khả năng cố định N và vi khuẩn sống trong trầm tích đóng vai trò quyết định. Nhóm san hô tạo rạn, do có tảo cộng sinh nội bào nên khác với các nhóm động vật khác, chúng có khả năng tự dưỡng. Trong điều kiện chiếu sáng thích hợp, quá trình tự dưỡng này đã cung cấp hơn 50% dòng năng lượng cho hệ sinh thái. Sức sản xuất sơ cấp của rạn san hô thường cao hơn vùng ngoài rạn đến hàng trăm lần. Nhiều tác giả đánh giá hệ sinh thái san hô là cơ sở dinh dưỡng hữu cơ, và là nguồn cung cấp thức ăn không chỉ cho bản thân sinh vật sống trong rạn mà còn cho cả vùng biển chung quanh. Rạn san hô thường gắn bó chặt chẽ với rừng ngập mặn, thảm cỏ biển nên chúng tạo cho thủy vực năng suất cao. Hàng năm, rạn san hô cung cấp hàng triệu tấn carbon cho các vùng nước lận cận phục vụ cho quá trình sống trong đại dương.
Sinh vật rạn san hô
Rạn san hô cũng được coi là hệ sinh thái quan trọng nhất, chúng bao gồm nhiều loài đặc trưng đại diện cho hầu hết các nhóm động vật biển. Một số lượng lớn các hang hốc trên rạn cung cấp nơi trú ẩn cho cá, động vật không xương sống đặc biệt là cá con. Nhiều sinh vật rạn 22 san hô như cá, rùa, tôm hùm, bạch tuộc, trai ốc và rong đỏ được khai thác làm thực phẩm. Nguồn khai thác nhiều nhất là cá. Sản lượng lớn nhất của cá khai thác quanh rạn thuộc về các nhóm cá di cư, chỉ vào rạn theo mùa như cá thu, cá ngừ,... Những cá này phân bố rộng trong đại dương nhưng trong một thời gian chúng đến gần các rạn để kiếm thức ăn và trong một số trường hợp
là để sinh sản. Các loài cá trải qua cả cuộc đời trong rạn như cá mú, cá hồng,... có thể đánh bắt quanh năm nhưng sản lượng không lớn. Tôm hùm là nguồn lợi gắn liền với rạn có nhu cầu rất lớn làm thực phẩm cho con người và bị khai thác ở nhiều vùng. Các nguồn lợi khác như bạch tuộc, trai tai tượng, trai ốc và các loại thực phẩm khác cũng được khai thác triệt để bằng các hình thức đơn giản và ít tốn kém. Các loại rong biển cũng được khai thác nhiều ở rạn san hô.
Một số trong chúng có giá trị dinh dưỡng cao do chứa nhiều viatmin và muối khoáng. Một số sinh vật khác được khai thác để làm đồ mỹ nghệ. San hô cứng được bán trong các cửa hàng lưu niệm và được sử dụng để trang trí hồ cá. Nhiều loài trai ốc được khai thác làm đồ lưu niệm, trang sức. Các loài rắn biển cũng đang được khai thác cho mục đích y học. Trong những năm gần đây, cá cảnh biển trở thành nguồn cung cấp cho một thị trường sôi động. Nhiều loài cá và động vật không xương sống trở thành đối tượng xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển ở Châu Âu, Mỹ, Nhật. Phương pháp đánh bắt cá cảnh thường bất cẩn và làm hư hại lớn sinh thái rạn san hô. Các chất độc như cyanide, formalin đang được sử dụng để
gây mê cá, chất độc cũng giết một phần các tập đoàn rạn san hô. Những hoạt động trên rạn để đánh bắt cá đã phá hủy nhiều rạn san hô cành vốn là vùng cư trú của cá cảnh. Một hoạt động trực tiếp nữa là khai thác san hô làm vật liệu xây dựng và nguyên liệu công nghiệp. Cả san hô chết và sống đều bị khai thác để lấy về nung vôi (Sri Lanka, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Việt Nam), để làm đường giao thông (Indonesia, Ấn Độ), và để làm cảng, chắn bờ. Cát san hô được nạo vét để làm vôi trong nông nghiệp và xi măng. Các rạn san hô còn được coi là kho dược liệu dưới đáy biển do có mặt nhiều nhóm sinh vật có hoạt tính sinh học hoặc độc tố có giá trị dược liệu. Các loài san hô sừng, san hô mềm cho nhiều hoạt chất có giá trị dược liệu quý. Các nhóm sinh vật khác như hải miên, rắn biển, cầu gai, hải sâm, cá độc và nhiều loài rong biển đều có những chất có hoạt tính sinh học cao có thể sử dụng làm dược liệu. Tính đa dạng của các loài trên san hô cao đến mức nhiều loài: đặc biệt là động vật không xương sống như giun, tôm vẫn chưa được mô tả. Vì vậy rạn được coi là "kho dự trữ" gien. Chúng lưu trữ nhiều chứng cứ để chúng ta có thể hiểu được các quần thể động thực vật phát triển như thế nào và có chức năng gì, cũng như chúng có thể có những giá trị tiềm ẩn trong tương lai.
Giá trị khác của san hô
Sự phức tạp về quá trình hình thành, sự khác nhau về hình dạng, màu sắc và trạng thái của sinh vật đã làm cho rạn có vẻ đẹp hiếm có và lôi cuốn đối với con người. Rạn là nguồn cảm hứng và đối tượng cho các nhà nhiếp ảnh dưới nước và của các nhà khoa học. Rạn cũng là nguồn lợi to lớn phục vụ cho giải trí và du lịch và được coi là có một giá trị văn hóa hiện đại. Bơi và lặn là một cơ sở cho việc phát triển kinh tế cho nhiều vùng đảo nhỏ, nơi mà tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là ánh nắng mặt trời, biển và thủy sản. Trước đây, câu và săn cá rạn là 23 môn thể thao chính trên rạn, giờ đây xem và chụp ảnh sinh vật rạn trở nên hấp dẫn hơn. Cư dân tại chổ giải
trí với rạn ít hơn là khách du lịch, tuy nhiên, du khách mang lại lợi ích nhờ tạo ra cơ hội buôn bán và việc làm. Trong vài thập niên gần đây do nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí tăng cao, rạn trở thành nguồn thu lớn cho ngành du lịch sinh thái. Rạn san hô là nơi các du khách tham quan bơi lội và lặn, hàng năm một lượng lớn du khách đến các đảo và vùng ven biển nơi có các rạn san hô đẹp để thư giản và khám phá vẻ đẹp kỳ diệu của các rạn san hô. Các nguồn thu từ du lịch rạn san hô ở Úc (Great Barrier Reefs) hàng năm thu gần 2 tỷ đô la Úc. Các rạn của Florida thu mỗi năm thu 1,6 tỷ USD, chỉ riêng du lịch lặn ở Caribbe và Hawaii thu khoảng 300 triệu USD. Du lịch
ặn ở Việt Nam bắt đầu khởi sắc từ cuối những năm 1990. Thành phố Nha Trang được coi là trung tâm của du lịch biển Việt Nam, nơi có rạn san hô đa dạng và tuyệt đẹp. Năm 2003, khách du lịch đến Nha Trang mang về cho tỉnh Khánh Hòa khoảng 300 tỷ đồng Việt Nam. Khánh Hòa cũng là nơi đầu tiên ở Việt Nam khai thác rạn san hô như là nguồn cảm hứng cho các cuộc thi chụp ảnh. Tham quan rạn san hô cũng phát triển ở Côn Đảo, nhưng còn ở quy mô nhỏ và chưa trở thành hoạt động du lịch chính thức. Cù Lao Chàm đang định hướng phát triển du lịch biển song song với thiết lập khu bảo tồn biển. Khách du lịch cũng góp phần quan trọng cho sự phát
triển của huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong những năm gần đây. Khách du lịch Phú Quốc chủ yếu đi thăm khu rừng tự nhiên ở phía Bắc đảo và bơi lội ở các bãi tắm ở các đảo.
Các giá trị gián tiếp
Giá trị trực tiếp mà nghề cá và du lịch được coi là khá lớn. Theo ước tính của các nhà khoa học cứ trung bình 1 km2 rạn có thể mang lại 108.000 USD từ nghề cá và 400.000 USD từ hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, rạn san hô còn gián tiếp mang lại cho con người nhiều lợi ích khác với giá trị không thể tính hết. Rạn san hô có thể đóng vai trò quan trọng về phát triển kinh tế, tạo việc làm và phúc lợi xã hội. Nghề cá tạo ra việc làm cho phần lớn cư dân ở các đảo và ven biển trong hoạt động đánh bắt và một số công việc khác liên quan đến biển, các nhà máy chế biến sản phẩm từ biển là một ví dụ. Rạn san hô được sử dụng cho giáo dục chính thức và không chính
thức. Giáo dục không chính thức thông qua hoạt động của các công viên biển và các khu bảo tồn, bao gồm cả xuất bản tài liệu và phát hành phim ảnh. Các hồ cá nhân tạo (aquarium) là một hình thức giáo dục không chính thức. Các chuyến thực địa cho sinh viên, học sinh đến các rạn san hô và trạm nghiên cứu ở các vùng biển là một ví dụ về việc sử dụng rạn san hô để giáo dục chính thức. Rạn san hô là phòng thí nghiệm tự nhiên với các ví dụ sống về các nguyên lý sinh học để dạy trong trường học. Rạn san hô còn được coi là nơi nuôi dưỡng và bảo vệ nhiều loài sinh vật quý hiếm, đồng thời là phòng thí nghiệm sống phục vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng về giá trị văn hóa của môi trường biển. Rạn cung cấp một ngân hàng gen của những loài có giá trị cho nghiên cứu bản chất của sự sống. Chúng còn có giá trị không thể đánh giá hết đối với y học và dược học. Trong nhiều trường hợp rạn còn là rào chắn bảo vệ bờ chống xói lở.
Những đê tự nhiên này còn bảo vệ cho vùng nước sau rạn khỏi sóng bão. Ước tính mỗi km2 rạn san hô cho phép tiết kiệm 190.000 USD chi phí cho việc bảo vệ vùng bờ hàng năm. Các đầm phá (lagoon) phía 24 trong rạn có thể khá sâu và có kênh thông với biển đã trở thành các bến đậu của tàu thuyền và là cơ sở để hình thành các cụm dân cư ven bờ. Ở một mức độ nhất định, hệ thống rạn san hô có khả năng tiếp nhận và xử lý chất thải nhờ sự phân hủy nhanh bởi vi khuẩn và các thành phần khác của nó. Tuy nhiên, khi vượt quá giới hạn sẽ xảy ra sự tăng số lượng các loại tảo, trầm tích hoặc cầu gai ăn mùn bã trong rạn và như thế cá cũng như các loài nhạy cảm khác cũng giảm xuống.
Rạn san hô Việt Nam
Rạn san hô là một trong những hệ sinh thái đặc sắc của biển Việt Nam, nơi có đa dạng sinh học rất cao, năng suất sơ cấp lớn, cảnh quan kỳ thú. Các rạn san hô của Việt Nam phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam trên diện tích khoảng 1.222 km2 , tập trung nhiều ở vùng biển Nam Trung bộ, Quần đảo Hoàng Sa và Trường sa. San hô Việt Nam rất đa dạng và phong phú với khoảng 350 loài tạo rạn kèm theo khoảng 3.000 loài sinh vật khác có đời sống liên quan và gắn bó với vùng rạn san hô. Trong đó, có khoảng 2.000 loài sinh vật đáy, 500 loài cá và nhiều loài có giá trị kinh tế cao như tôm hùm (Panulirus), bào ngư (Haliotis diversicolor), trai ngọc (Pteria martensi), hải sâm (Holothuria),... sống gắn bó trực tiếp với san hô. Ở vịnh Hạ Long, phát hiện được 205 loài san hô cứng, 27 loài san hô mềm. Ở Côn Đảo, có 219 loài san hô, tập trung thành khu vực lớn kèm theo 160 loài cá san hô. Nhìn chung, hệ sinh thái rạn san hô có cấu trúc phức tạp, rất nhạy cảm với sự đe dọa của môi trường, đặc biệt là những de dọa từ con người như đánh bắt cá bằng thuốc nổ, hóa chất độc, khai thác san hô bừa bãi, hoạt động du lịch và các hoạt động phát triển kinh tế xã hội khác. Trong 15 năm trở lại đây, khoảng 15-20% diện tích các rạn san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như vịnh Hạ Long, các tỉnh ven biển miền trung và một số đảo có người sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa. Độ phủ trên rạn san hô đang bị giảm dần theo thời gian, nhiều nơi độ phủ giảm trên 30%. Điều này cho thấy rạn san hô đang bị phá hủy và có chiều hướng suy thoái mạnh. Sự biến đổi diện tích và những tổn thương của nhiều rạn san hô gây nhiều thiệt hại cụ thể như sự giảm đa dạng sinh học, sinh thái và chất lượng môi trường biển; mất kế sinh nhai của cộng đồng vùng ven biển và thiệt hại cho ngành du lịch và thủy sản.
Đất nước Việt Nam thật giàu đẹp - từ Bắc (Ải Nam Quan) đến Nam (Mũi Cà Mau), và vươn ra biển Đông với các quần đào Hoàng Sa, Trường Sa của những rạn san hô trắng xóa.
Đây là một tài sản vô giá của dân tộc Việt !
Comment