Phần 1: Tuổi Trẻ Dại Khờ
Tuy không phải địa chủ nhiều ruộng đất nhưng với 6 công đất rẫy ở sát thị xã và chịu khó trồng hàng bông, mùa nào thức nấy bán cho bạn hàng nên nhà ông ngoại cậu sống trong sung túc, có của dư, của để.
Do hiếm muộn, lúc ông đã gần 50 tuổi mới có một mụn con mà cô gái lại nhỏ người, yếu đuối nên ông bà rất yêu thương, cưng chìu, không bắt học hành hay phải làm việc nặng. Khi con gái lớn lên, sợ con gái yêu không kham nỗi việc làm dâu họ cố tìm một chàng trai hiền lành, giỏi việc và chịu ở rể làm chồng cho con. Thế là hai ông bà để ý tìm trong đám trai làng và những làng lân cận một chàng rể thích hợp. Không chàng trai nào trong vùng khiến họ yên tâm, vững dạ để phó thác con gái và sau này là cả cơ ngơi, sự sản của họ cho. Rồi một hôm trong giao dịch làm ăn họ nhận thấy trong đám bạn chèo của những chiếc ghe thương hồ lui tới có một chàng trai tên Nguyễn văn X. vóc dáng vạm vỡ, mặt mũi coi được, nói tiếng Trung nhưng giọng nhẹ, dễ nghe, tính tình hiền lành, siêng năng, cần cù, không ngại khó khổ. Khi đã quen gia đình chàng trai ấy khai thật là con trưởng của một gia đình ở Huế làm nghề cung cấp đất sét cho lò gốm trong vùng. Trong một lần cùng người em trai kế đi chở đất, ghe bị nạn và người em trai chết. Buồn, hối hận, sợ trách nhiệm trước mất mát quá lớn, chàng trai ấy xin làm bạn chèo trên một ghe thương hồ trốn vào miền Nam, mấy năm nay sống đời phiêu bạt, nổi trôi theo dòng nước rày đây, mai đó như một đám lục bình.
Đám lục bình ấy trôi đến một nhánh sông Tiền thì trổ bông. Một đám cưới nhỏ nhưng tươm tất với đầy đủ nghi lễ được tổ chức. Chàng rể hiền lành lại siêng năng trong việc đồng áng, gia đình sống trong ấm êm, hạnh phúc. Một thời gian sau mẹ cậu sinh con gái đầu lòng nhưng chị vắn số. Năm sau cậu ra đời trong sự vui mừng, yêu thương của ông bà ngoại và cha mẹ. Ba năm sau mẹ cậu sinh thêm một em gái, rồi 5 năm sau cậu có em trai út. Đến tuổi được cho đi học, cậu đã làm cho gia đình cùng làng xóm hảnh diện khi đậu Sơ Học lúc chưa 10 tuổi, được quan Tây Đốc Học đích thân trao chứng chỉ và bắt tay. Khi người em trai út mới ngoài tuổi tôi cha cậu bạo bệnh qua đời; hậu quả của những năm tháng lao lực vất vả thời trai trẻ.
Nhà mất lao động chính, bi kịch bắt đầu từ đấy. Hơn năm sau ông ngoại cậu qua đời vì bệnh già. Tang này chưa mãn lại có thêm tang mới. Bao nhiêu của cải tích lũy được giờ lần lượt ra đi; sát ranh cuối cuộc đất có thêm hai ngôi mộ đá ong. Gánh nặng kinh tế giờ đặt lên vai bà ngoại cậu.
Sau khi mãn tang chồng, có một người ở làng bên lân la đến làm quen mẹ cậu. Biết gốc tích và tính tình không tốt của người ấy, bà ngoại cậu cực lực phản đối nhưng vì quy luật chỉ gả con một lần nên bà không thể nào ngăn cấm. Việc phải đến đã đến. Người ấy ngỏ lời xin chắp nối và nhận được sự đồng ý của mẹ cậu, bất chấp sự phản đối của bà ngoại. Bà không nhận rể nên không cho người ấy vào nhà sống.
Cảnh xảy đàn, tan nghé diễn ra. Bà ngoại cho mẹ cậu một số vốn để ra riêng, tạo lập cuộc sống bên người chồng mới. Khi ra đi, mẹ cậu dẫn theo hai em nhỏ, còn cậu được bà ngoại giữ lại nuôi. Bà cũng cấm cậu không được léo hánh sang nhà của mẹ , mà nhà của mẹ cậu và người chồng mới có đâu xa, chỉ bên kia con mương giáp ranh phía sau cuộc đất nhà. Nhà ngoại cậu trước đây đông người, lúc nào cũng vang tiếng nói, tiếng cười, tiếng học bài của anh em cậu giờ chỉ còn hai bà cháu trở nên âm u, vắng vẻ. Căn nhà hình như rộng ra. Bàn thờ đầy hơn vì giờ có thêm hai di ảnh. Ban ngày nhà càng vắng vẻ vì cháu đi học còn bà làm lụng ngoài đồng. Cháu còn nhỏ, ngoài việc học chỉ biết phụ giúp chút đỉnh việc nhà, còn bà nay đã ngoài 60, sau mấy mươi năm không phải trực tiếp lao động vì việc nặng đã có chồng, có con rể lo nên giờ làm không quen và cũng không còn đủ sức khỏe. Nhưng vì cuộc sống bản thân, vì tương lai cháu nên hằng ngày bà phải vác cuốc ra đồng. Rồi bà tìm ra được “thần dược” giúp vượt qua nỗi đau thể xác, do tuổi già phải lao động nặng, và cũng để nhất thời quên được những phiền muộn xảy đến vào cuối đời: Rượu. Sau một lúc cuốc đất thấm mệt, khát nước, bà vào bếp nhấp một ngụm rượu. Rồi đến lúc bà uống rượu thay nước.
Hai bà cháu sống trong eo hẹp nhưng điều quan trọng là cậu vẫn được đến trường. Hàng xóm cám cảnh, mến gia đình xưa nay ăn ở hiền lành, chí thú làm ăn, giờ lại gặp tai ương dồn dập. Họ mến tài học của cậu, nhiều người ngỏ ý muốn giúp đỡ phụ nuôi cậu ăn học nhưng bà ngoại cậu khẳng khái từ chối. Họ nghĩ ra nhiều cách để giúp. Người hàng xóm bên cạnh trưa trưa lại nói vói sang: “Bà nội thằng ba, trưa nay nếu nó rảnh bà cho nó sang nhà tôi đọc truyện. Giọng nó đọc truyện, nhất là đọc thơ Lục Vân Tiên hay lắm. Bà nhà tôi nhớ nó. Bả nhắc mấy bữa nay sao không thấy nó sang chơi.” Khi cậu sang, trên bàn đã để sẵn khi thì tô cà ri, khi thì tô bún nem nướng. Cuối năm học cậu mang về nhà không chỉ có gói phần thưởng của trường.
Với cậu, những thiếu thốn hay khó khăn trong cuộc sống không quan trọng vì cậu vẫn được đến trường, vẫn được vui bên bạn bè và thầy cô. Chính những mất mát xảy đến dồn dập: mất cha, rồi mất ông và nay phải xa rời mẹ và hai em đã tác động mạnh đến cậu. Mẹ và em cậu vẫn sống cạnh bên, gần nhưng rất xa vì bà ngoại ngăn cấm không cho lui tới, tiếp xúc, và bản thân cậu cũng không muốn lui tới căn nhà ấy vì những điều tiếng không hay của người cha dượng mà cậu được nghe hay đôi lần trực tiếp chứng kiến. Cậu nhớ mẹ, nhớ em. Thỉnh thoảng vẫn gặp mặt, vẫn nghe tiếng nhưng không được mẹ lo lắng, chăm sóc miếng ăn, giấc ngủ như trước đây, không được bồng, được nựng đứa em trai út, cùng học, cùng chơi với đứa em gái. Tất cả những thiếu thốn tình cảm ấy trĩu năng trong tim cậu bé. Buổi sáng phải đi học nên buổi trưa, khi bà ngoại vào nhà nghỉ trưa, cậu thường mượn cớ ra sau đất nhà “vừa trông rẫy, vừa cho yên tĩnh dễ học bài” để có thể nghe tiếng mẹ, tiếng hai em bên kia mương vọng sang, hoặc nhìn thấy ba người thân ấy qua khung cửa sổ, hay khi họ bước ra sân. Cũng may ở cuối cuộc đất, gần phía bờ mương có cây bằng lăng già to, cao, tạo bóng mát cho cậu ngồi và có cành lá um tùm để cậu có thể lén trèo lên đó nhìn xuyên qua cửa sổ, thấy được mẹ và em. Nhiều lần cậu muốn lên tiếng gọi mẹ, gọi hai em nhất là khi nhìn thấy họ bước ra khỏi nhà hay xuất hiện bên khung cửa sổ nhưng cậu không dám gọi do sợ bà biết và cũng vì cậu không muốn gặp mặt người cha dượng. Những lần ra sau vườn nhìn sang thấy nhà mẹ đóng cửa, hay ngồi chờ lâu mà không nghe tiếng, không thấy mẹ và em, cậu chỉ biết ngồi lặng lẽ khóc. Cậu nhìn quanh quất, bên phải là hai ngôi mộ đá ong mới màu còn đỏ rực, đám ruộng nhà kế bên trái lúa mọc xanh rờn, xa xa là đám cây với những cây dừa có tàu lá cong dễ nhận biết, cây dương cổ thụ cành lá cao vượt đơn độc, tiếng gà gáy trưa eo óc từ xa vang vọng lại... Không gian rộng lớn nhưng trong tầm mắt cậu hiện nay không một bóng người. Ngó tới, ngó lui cũng chỉ có mỗi mình cậu! Nhiều đêm nằm trên bộ ngựa gõ trước nhà nhìn lên bàn thờ mờ mờ thấy di ảnh cha, di ảnh ông rồi nhớ lại cảnh đời đơn chiếc hiện nay: chỉ bị mất cha nhưng nay cậu như người mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cậu lại tủi thân khóc. Nước mắt đã rơi trong nhiều đêm như thế.
Bốn năm sau ngày ông ngoại mất bà ngoại qua đời. Mẹ cậu trở về lo việc ma chay, hậu sự cho ngoại. Cha dượng cũng về theo. Cậu được đoàn tụ với mẹ và hai em. Niềm vui đoàn tụ kéo dài không lâu. Mọi việc xảy ra đúng theo ý định ngay từ đầu của người cha dượng. Giờ không còn gì có thể ngăn cản ông ta đạt được mục đích, và những thói hư tật xấu từ lâu phải kềm chế nay được tự do thể hiện. Tức nước vỡ bờ. Sau nhiều lần kềm chế để cho nhà được yên, cho mẹ được vui nhưng ngày càng bị áp chế, cậu đã phản kháng lại cha dượng. Cậu phải ra đi. Cậu đã ra đi với lời thề sẽ không bao giờ quay lại căn nhà ấy, quay lại cuộc đất ấy. Đó là một sai lầm mà suốt đời cậu phải hối hận. Cậu còn quá nhỏ để hiểu rằng cuộc đất, căn nhà chỉ là những thứ để con người sử dụng. Chúng hoàn toàn vô tội. Nếu có giận, ghét hay căm thù thì đối tượng của những cảm xúc ấy phải là con người.
Sức yếu, không thể vác lúa cho nhà máy chà gần nhà nên ban ngày cậu phải ra chợ kiếm việc làm thuê để có cái ăn, đêm tối ngủ hàng hiên hay nhà lồng chợ. Một buổi sớm ông chủ tiệm cà phê người Hoa mở cửa bưng bếp ra lề đường nhóm lửa thì thấy ngủ trước hiên nhà là một cậu trai mặt trông khá quen. Nhìn kỹ ông nhận ra đó là cậu học trò trước đây thỉnh thoảng vẫn ôm cặp đi ngang tiệm. Ông hỏi tự sự. Cậu trai thành thật trả lời. Cám cảnh, ông nhận cậu trai vào làm công việc chạy bàn, cho ăn, ngủ tại tiệm và đối xử như người trong nhà. Cậu trai không phụ lòng ông chủ. Cậu siêng năng, chịu khó làm việc và sáng ý. Việc gì mới chỉ cần chỉ cậu một vài lần là có thể làm thành thạo. Làm trong tiệm vài tháng cậu có thể hiểu và thậm chí trả lời được những câu tiếng Quảng Đông mà ông thường nói. Còn những thầy thông, thầy ký vào tiệm nói tiếng Pháp cậu cũng trả lời trôi chảy. Cậu rất được ông chủ thương.
Cách mạng tháng Tám nổ ra. Khách vào tiệm cà phê đông hơn và ngồi lâu hơn, thường là để bàn chuyện quốc sự. Những lời bàn tán ấy lọt vào tai cậu chạy bàn. Câu cửa miệng của đám thanh niên dạo ấy là, “Đất nước lâm nguy, thất phu hữu trách.” Một buổi tối cuối năm 1945 cậu ngỏ lời cám ơn ông chủ vì hơn năm qua được ông cưu mang, bảo bọc, đối xử như con cháu trong nhà, và xin phép ông được ra đi theo cách mạng. Năm đó cậu 16 tuổi, tiệm cà phê nằm trên đường Gia Long treo bảng hiệu Đổng Hính.
(Còn phần 2)
Tuy không phải địa chủ nhiều ruộng đất nhưng với 6 công đất rẫy ở sát thị xã và chịu khó trồng hàng bông, mùa nào thức nấy bán cho bạn hàng nên nhà ông ngoại cậu sống trong sung túc, có của dư, của để.
Do hiếm muộn, lúc ông đã gần 50 tuổi mới có một mụn con mà cô gái lại nhỏ người, yếu đuối nên ông bà rất yêu thương, cưng chìu, không bắt học hành hay phải làm việc nặng. Khi con gái lớn lên, sợ con gái yêu không kham nỗi việc làm dâu họ cố tìm một chàng trai hiền lành, giỏi việc và chịu ở rể làm chồng cho con. Thế là hai ông bà để ý tìm trong đám trai làng và những làng lân cận một chàng rể thích hợp. Không chàng trai nào trong vùng khiến họ yên tâm, vững dạ để phó thác con gái và sau này là cả cơ ngơi, sự sản của họ cho. Rồi một hôm trong giao dịch làm ăn họ nhận thấy trong đám bạn chèo của những chiếc ghe thương hồ lui tới có một chàng trai tên Nguyễn văn X. vóc dáng vạm vỡ, mặt mũi coi được, nói tiếng Trung nhưng giọng nhẹ, dễ nghe, tính tình hiền lành, siêng năng, cần cù, không ngại khó khổ. Khi đã quen gia đình chàng trai ấy khai thật là con trưởng của một gia đình ở Huế làm nghề cung cấp đất sét cho lò gốm trong vùng. Trong một lần cùng người em trai kế đi chở đất, ghe bị nạn và người em trai chết. Buồn, hối hận, sợ trách nhiệm trước mất mát quá lớn, chàng trai ấy xin làm bạn chèo trên một ghe thương hồ trốn vào miền Nam, mấy năm nay sống đời phiêu bạt, nổi trôi theo dòng nước rày đây, mai đó như một đám lục bình.
(Nguồn ảnh: NET)
Đám lục bình ấy trôi đến một nhánh sông Tiền thì trổ bông. Một đám cưới nhỏ nhưng tươm tất với đầy đủ nghi lễ được tổ chức. Chàng rể hiền lành lại siêng năng trong việc đồng áng, gia đình sống trong ấm êm, hạnh phúc. Một thời gian sau mẹ cậu sinh con gái đầu lòng nhưng chị vắn số. Năm sau cậu ra đời trong sự vui mừng, yêu thương của ông bà ngoại và cha mẹ. Ba năm sau mẹ cậu sinh thêm một em gái, rồi 5 năm sau cậu có em trai út. Đến tuổi được cho đi học, cậu đã làm cho gia đình cùng làng xóm hảnh diện khi đậu Sơ Học lúc chưa 10 tuổi, được quan Tây Đốc Học đích thân trao chứng chỉ và bắt tay. Khi người em trai út mới ngoài tuổi tôi cha cậu bạo bệnh qua đời; hậu quả của những năm tháng lao lực vất vả thời trai trẻ.
Nhà mất lao động chính, bi kịch bắt đầu từ đấy. Hơn năm sau ông ngoại cậu qua đời vì bệnh già. Tang này chưa mãn lại có thêm tang mới. Bao nhiêu của cải tích lũy được giờ lần lượt ra đi; sát ranh cuối cuộc đất có thêm hai ngôi mộ đá ong. Gánh nặng kinh tế giờ đặt lên vai bà ngoại cậu.
Sau khi mãn tang chồng, có một người ở làng bên lân la đến làm quen mẹ cậu. Biết gốc tích và tính tình không tốt của người ấy, bà ngoại cậu cực lực phản đối nhưng vì quy luật chỉ gả con một lần nên bà không thể nào ngăn cấm. Việc phải đến đã đến. Người ấy ngỏ lời xin chắp nối và nhận được sự đồng ý của mẹ cậu, bất chấp sự phản đối của bà ngoại. Bà không nhận rể nên không cho người ấy vào nhà sống.
Cảnh xảy đàn, tan nghé diễn ra. Bà ngoại cho mẹ cậu một số vốn để ra riêng, tạo lập cuộc sống bên người chồng mới. Khi ra đi, mẹ cậu dẫn theo hai em nhỏ, còn cậu được bà ngoại giữ lại nuôi. Bà cũng cấm cậu không được léo hánh sang nhà của mẹ , mà nhà của mẹ cậu và người chồng mới có đâu xa, chỉ bên kia con mương giáp ranh phía sau cuộc đất nhà. Nhà ngoại cậu trước đây đông người, lúc nào cũng vang tiếng nói, tiếng cười, tiếng học bài của anh em cậu giờ chỉ còn hai bà cháu trở nên âm u, vắng vẻ. Căn nhà hình như rộng ra. Bàn thờ đầy hơn vì giờ có thêm hai di ảnh. Ban ngày nhà càng vắng vẻ vì cháu đi học còn bà làm lụng ngoài đồng. Cháu còn nhỏ, ngoài việc học chỉ biết phụ giúp chút đỉnh việc nhà, còn bà nay đã ngoài 60, sau mấy mươi năm không phải trực tiếp lao động vì việc nặng đã có chồng, có con rể lo nên giờ làm không quen và cũng không còn đủ sức khỏe. Nhưng vì cuộc sống bản thân, vì tương lai cháu nên hằng ngày bà phải vác cuốc ra đồng. Rồi bà tìm ra được “thần dược” giúp vượt qua nỗi đau thể xác, do tuổi già phải lao động nặng, và cũng để nhất thời quên được những phiền muộn xảy đến vào cuối đời: Rượu. Sau một lúc cuốc đất thấm mệt, khát nước, bà vào bếp nhấp một ngụm rượu. Rồi đến lúc bà uống rượu thay nước.
Hai bà cháu sống trong eo hẹp nhưng điều quan trọng là cậu vẫn được đến trường. Hàng xóm cám cảnh, mến gia đình xưa nay ăn ở hiền lành, chí thú làm ăn, giờ lại gặp tai ương dồn dập. Họ mến tài học của cậu, nhiều người ngỏ ý muốn giúp đỡ phụ nuôi cậu ăn học nhưng bà ngoại cậu khẳng khái từ chối. Họ nghĩ ra nhiều cách để giúp. Người hàng xóm bên cạnh trưa trưa lại nói vói sang: “Bà nội thằng ba, trưa nay nếu nó rảnh bà cho nó sang nhà tôi đọc truyện. Giọng nó đọc truyện, nhất là đọc thơ Lục Vân Tiên hay lắm. Bà nhà tôi nhớ nó. Bả nhắc mấy bữa nay sao không thấy nó sang chơi.” Khi cậu sang, trên bàn đã để sẵn khi thì tô cà ri, khi thì tô bún nem nướng. Cuối năm học cậu mang về nhà không chỉ có gói phần thưởng của trường.
Với cậu, những thiếu thốn hay khó khăn trong cuộc sống không quan trọng vì cậu vẫn được đến trường, vẫn được vui bên bạn bè và thầy cô. Chính những mất mát xảy đến dồn dập: mất cha, rồi mất ông và nay phải xa rời mẹ và hai em đã tác động mạnh đến cậu. Mẹ và em cậu vẫn sống cạnh bên, gần nhưng rất xa vì bà ngoại ngăn cấm không cho lui tới, tiếp xúc, và bản thân cậu cũng không muốn lui tới căn nhà ấy vì những điều tiếng không hay của người cha dượng mà cậu được nghe hay đôi lần trực tiếp chứng kiến. Cậu nhớ mẹ, nhớ em. Thỉnh thoảng vẫn gặp mặt, vẫn nghe tiếng nhưng không được mẹ lo lắng, chăm sóc miếng ăn, giấc ngủ như trước đây, không được bồng, được nựng đứa em trai út, cùng học, cùng chơi với đứa em gái. Tất cả những thiếu thốn tình cảm ấy trĩu năng trong tim cậu bé. Buổi sáng phải đi học nên buổi trưa, khi bà ngoại vào nhà nghỉ trưa, cậu thường mượn cớ ra sau đất nhà “vừa trông rẫy, vừa cho yên tĩnh dễ học bài” để có thể nghe tiếng mẹ, tiếng hai em bên kia mương vọng sang, hoặc nhìn thấy ba người thân ấy qua khung cửa sổ, hay khi họ bước ra sân. Cũng may ở cuối cuộc đất, gần phía bờ mương có cây bằng lăng già to, cao, tạo bóng mát cho cậu ngồi và có cành lá um tùm để cậu có thể lén trèo lên đó nhìn xuyên qua cửa sổ, thấy được mẹ và em. Nhiều lần cậu muốn lên tiếng gọi mẹ, gọi hai em nhất là khi nhìn thấy họ bước ra khỏi nhà hay xuất hiện bên khung cửa sổ nhưng cậu không dám gọi do sợ bà biết và cũng vì cậu không muốn gặp mặt người cha dượng. Những lần ra sau vườn nhìn sang thấy nhà mẹ đóng cửa, hay ngồi chờ lâu mà không nghe tiếng, không thấy mẹ và em, cậu chỉ biết ngồi lặng lẽ khóc. Cậu nhìn quanh quất, bên phải là hai ngôi mộ đá ong mới màu còn đỏ rực, đám ruộng nhà kế bên trái lúa mọc xanh rờn, xa xa là đám cây với những cây dừa có tàu lá cong dễ nhận biết, cây dương cổ thụ cành lá cao vượt đơn độc, tiếng gà gáy trưa eo óc từ xa vang vọng lại... Không gian rộng lớn nhưng trong tầm mắt cậu hiện nay không một bóng người. Ngó tới, ngó lui cũng chỉ có mỗi mình cậu! Nhiều đêm nằm trên bộ ngựa gõ trước nhà nhìn lên bàn thờ mờ mờ thấy di ảnh cha, di ảnh ông rồi nhớ lại cảnh đời đơn chiếc hiện nay: chỉ bị mất cha nhưng nay cậu như người mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cậu lại tủi thân khóc. Nước mắt đã rơi trong nhiều đêm như thế.
Trời mưa bong bóng phập phồng,
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?
Bốn năm sau ngày ông ngoại mất bà ngoại qua đời. Mẹ cậu trở về lo việc ma chay, hậu sự cho ngoại. Cha dượng cũng về theo. Cậu được đoàn tụ với mẹ và hai em. Niềm vui đoàn tụ kéo dài không lâu. Mọi việc xảy ra đúng theo ý định ngay từ đầu của người cha dượng. Giờ không còn gì có thể ngăn cản ông ta đạt được mục đích, và những thói hư tật xấu từ lâu phải kềm chế nay được tự do thể hiện. Tức nước vỡ bờ. Sau nhiều lần kềm chế để cho nhà được yên, cho mẹ được vui nhưng ngày càng bị áp chế, cậu đã phản kháng lại cha dượng. Cậu phải ra đi. Cậu đã ra đi với lời thề sẽ không bao giờ quay lại căn nhà ấy, quay lại cuộc đất ấy. Đó là một sai lầm mà suốt đời cậu phải hối hận. Cậu còn quá nhỏ để hiểu rằng cuộc đất, căn nhà chỉ là những thứ để con người sử dụng. Chúng hoàn toàn vô tội. Nếu có giận, ghét hay căm thù thì đối tượng của những cảm xúc ấy phải là con người.
Sức yếu, không thể vác lúa cho nhà máy chà gần nhà nên ban ngày cậu phải ra chợ kiếm việc làm thuê để có cái ăn, đêm tối ngủ hàng hiên hay nhà lồng chợ. Một buổi sớm ông chủ tiệm cà phê người Hoa mở cửa bưng bếp ra lề đường nhóm lửa thì thấy ngủ trước hiên nhà là một cậu trai mặt trông khá quen. Nhìn kỹ ông nhận ra đó là cậu học trò trước đây thỉnh thoảng vẫn ôm cặp đi ngang tiệm. Ông hỏi tự sự. Cậu trai thành thật trả lời. Cám cảnh, ông nhận cậu trai vào làm công việc chạy bàn, cho ăn, ngủ tại tiệm và đối xử như người trong nhà. Cậu trai không phụ lòng ông chủ. Cậu siêng năng, chịu khó làm việc và sáng ý. Việc gì mới chỉ cần chỉ cậu một vài lần là có thể làm thành thạo. Làm trong tiệm vài tháng cậu có thể hiểu và thậm chí trả lời được những câu tiếng Quảng Đông mà ông thường nói. Còn những thầy thông, thầy ký vào tiệm nói tiếng Pháp cậu cũng trả lời trôi chảy. Cậu rất được ông chủ thương.
Cách mạng tháng Tám nổ ra. Khách vào tiệm cà phê đông hơn và ngồi lâu hơn, thường là để bàn chuyện quốc sự. Những lời bàn tán ấy lọt vào tai cậu chạy bàn. Câu cửa miệng của đám thanh niên dạo ấy là, “Đất nước lâm nguy, thất phu hữu trách.” Một buổi tối cuối năm 1945 cậu ngỏ lời cám ơn ông chủ vì hơn năm qua được ông cưu mang, bảo bọc, đối xử như con cháu trong nhà, và xin phép ông được ra đi theo cách mạng. Năm đó cậu 16 tuổi, tiệm cà phê nằm trên đường Gia Long treo bảng hiệu Đổng Hính.
(Còn phần 2)
Comment