Announcement

Collapse
No announcement yet.

Truyện Ngắn Trần Cường - Xuôi Ngược Mây Nguồn

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện Ngắn Trần Cường - Xuôi Ngược Mây Nguồn

    Tập Truyện Ngắn Trần Cường

    Tôi bắt đầu viết văn dạng truyện ngắn vào năm 2005. Thực ra, thời gian viết văn này tôi rất bị căng thẳng vì công việc làm, đây cũng là phương tiện để tôi thư giãn đầu óc. Lúc đó tôi viết khá nhiều, chẳng có mục đích gì cao xa vì chỉ muốn tò mò viết văn ra sao, từ đó đam mê viết trong 4 năm liền. Bạn Ngọc Trúc (77KNC) là người giúp tôi "proof reading" phê bình sửa chữa cấu trúc câu văn, tình tiết câu chuyện, cách dùng từ ngữ,...

    Năm 2007, tôi học hỏi rất nhiều từ Trúc, tôi bắt đầu đọc đi đọc lại tổng cộng 25 bài truyện ngắn, sửa đi viết lại ròng rã 2 năm. Những bài lúc đầu 25 trang giấy, sau đó chỉ còn 8-10 trang mà thôi, nhưng xúc tích ngắn gọn hơn lúc đầu. Cuối cùng tôi chỉ cảm thấy hài lòng có được 6 bài viết

    Khói Mù Xứ Lạ

    Nỗi Đau Còn Mãi

    Phố Đêm Tỉnh Nhỏ

    Dở Dang

    Soi Tìm Bóng Đêm

    Kẻ Lạ

    Những bài viết đều do đầu óc tưởng tượng của tôi, phần lớn không có thật, xa ời với thực tế đời sống, không thu hút mấy với người đọc. Bài viết cuối là bài "Kẻ Lạ" nói về suy nghĩ của một người tha hương nhìn nhận về quê hương sau bao lần về thăm quê hương gia đình. Tôi chấm dứt viết truyện ngắn vào năm 2010. Tập truyện ngắn này chia xẻ các bạn những bài viết mà tôi đắc ý nhất.


    Khói Mù Xứ Lạ.



    Vinh bước lang thang trên bãi cát vàng, tiếp tục để lại những dấu chân trên cát nhiều hơn. Sau lưng anh biển xanh biếc mênh mông đến chân trời. Tiếng sóng rì rào hòa nhịp tiếng gió vi vu của hàng dương liễu làm tâm hồn anh nhẹ nhàng. Anh tiếp bước đến ngôi nhà thờ cao to đằng trước. Trên trời, làn mây trắng bềnh bồng ôm quanh đỉnh cao thánh giá. Vinh cảm thấy cô đơn. Anh thọt tay vào túi quần, co vai cúi mặt lạnh lùng chậm rãi bước.

    Con đường vào nhà thờ có hàng cây xanh, bóng mát làm nắng rọi loang lỗ thảm cỏ xanh mướt. Hoa mimosa tím và tulip vàng mọc rộ vòng chân tường làm nổi bật cánh cửa cao rộng. Những tia nắng rọi sáng tháp chuông cao nằm bên cạnh thánh đường uy nghi lộng lẫy, tạo nên một khung cảnh vắng lặng trang nghiêm của một buổi sáng cuối tuần.

    Vinh vẫn cúi mặt lạnh lùng chậm rãi bước vào trong thánh đường, có lẽ anh là người đầu tiên đến trong ngày cưới của Dung. Không suy nghĩ chần chừ, anh tiếp tục bước lên hàng ghế trên và quỳ xuống cầu nguyện một mình dưới chân chúa. Vừa cúi đầu trên bục, bất chợt ngửi mùi hoa thơm thoang thoảng trong nhà thờ, anh ngạc nhiên vì mình hút thuốc lá đã lâu năm, chưa bao giờ anh nhạy cảm ngửi được mùi thơm như thế này. Anh ngước mặt, mở mắt thật lớn, anh thấy những bình hoa cưới trưng bày sặc sỡ dọc hai bên, sắc hoa làm nổi bật thánh đường mặc dầu chưa có đèn thắp sáng bên trong. Mùi hương hoa làm Vinh nhớ lại ngày cưới xa xưa của anh.

    Dung là người yêu đầu đời và cũng là vợ của Vinh trước khi sang Mỹ. Tình yêu của đôi lứa lớn lên nơi miền thùy dương cát trắng, biển cũng đưa vợ chồng anh đến vùng trời tự do. Sau năm năm nơi xứ lạ, vợ chồng anh ly dị đã gần hai năm nay. Trong giờ phút này anh chỉ cầu nguyện cho nàng được một hạnh phúc bên người chồng mới, nhất là thằng bé Vũ lên năm được bảo bọc lớn khôn trong yêu thương.

    Anh xót xa về sự mất mát to lớn ngoài sức tưởng tượng. Sự sợ hãi làm cho anh rùng mình đưa bàn tay bụm mặt để che dấu những tiếng nấc tiếc thương hay che đậy tội lỗi trong lòng mình. Khi bàn tay ôm lấy mặt, anh ngửi được mùi cháy khét của thuốc lá trên những ngón tay vàng khè. Anh biết chính khói thuốc ru ngủ tâm hồn anh từ ngày đến xứ lạ quê người. Và cũng chính khói thuốc đốt cháy tàn rụi cuộc tình trăm năm của anh. Anh cúi gầm mặt, hai ngón tay cái cứ mân mê vầng trán, rồi ngước mặt tha thiết cầu xin đấng tối cao cứu vớt tâm hồn anh. Mùi hương thơm của hoa cưới và mùi thơm khét trên tay làm anh trái ngang đau xót vì gia đình anh đổ vỡ bởi chuyện không đâu. Hôm nay là ngày cưới của Dung, thế là anh sắp sửa vĩnh viễn mất vợ xa con. Chỉ còn niềm tin trong sự cứu rỗi của Chúa có thể làm tâm hồn anh nguôi ngoai quên đi cuộc tình dở dang.

    Nắng chiếu lấp lánh qua cánh cửa sổ trạm trỗ mầu sắc trên cao làm mắt anh lóa nhòa xốn cay. Dòng nước mắt lăn tròn trên gò má, anh xấu hổ với chính mình. Anh vội bước lùi ra ngoài thánh đường. Hai bàn tay bấu cứng vào thành cửa, anh cố giữ lấy sự bình tĩnh. Lồng phổi anh bỗng nặng trĩu, anh ho lên từng cơn sặc sụa. Tiếng ho nặng đờm trong cuống họng làm nặng nề âm vang trong khung viên nhà thờ vắng vẻ. Anh thều thào “ Chúa ôi, cuộc đời con thật là khốn nạn!”.

    Anh cố gằng rảo bước một vòng sân vườn rồi ngồi nhoài người trên băng ghế. Anh đeo đôi mắt kiếng đen ngửa mặt lên trời, cầm điếu thuốc lá trên tay hút thỏa thích. Khói thuốc trắng bay tan biến nhanh trong gió thoảng; chỉ còn mùi thơm của thuốc lá làm anh có cảm giác tiếc nuối thèm thuồng một hạnh phúc ngày nào. Anh thở ra thật dài, lắc đầu như muốn từ chối một việc gì. Anh ném điếu thuốc xuống đất dùng chân dụi tắt. Ngả xoài người trên băng ghế đá, hai bàn tay đứa lên mặt vuốt đỏ mặt rần, rồi bắt chéo lên trán suy tư.

    Cũng chỉ vì làn khói thuốc ở xứ lạ mà đã làm mất hạnh phúc gia đình. Trong đường cùng của đau đớn, anh lại dùng điếu thuốc để cứu rổi sự thất vọng khốn cùng. Biết đó là nguồn gốc của đau thương, anh tiếp tục hít nhựa thuốc để làm tê liệt tâm hồn mình. Tha hương lâu ngày tại Mỹ, Vinh đã có nhiều cắt giảm thói quen như cà phê, rượu bia, câu cá, cà kê với bạn bè. Nhưng cái dở là anh chẳng thể nào bỏ được hút thuốc, do đó gia đình thường xảy ra những tranh luận phiền muộn giữa hai vợ chồng. Vợ anh khó tính phàn nàn: “Anh lại hút thuốc trong nhà nữa sao! Sao cứ để ngưới ta theo nhắc hoài”.

    Cứ mỗi lần như thế anh lại rùng mình tê tái, cho đến một ngày cái lối ‘hòa thuận và nhẫn nhục’ trở thành vô hiệu. Muộn phiền cứ chồng chất trong tâm tư cho đến một ngày hai đứa phải chia tay đổ vỡ. Lý do gia đình đổ vỡ là chuyện riêng tư, thế mà chẳng bao lâu người đời cũng đánh hơi lên tiếng châm biếm trêu chọc Vinh: “Nó thà chết vì khói thuốc còn hơn sống trong khói mù của bà xã”.

    Lúc đầu nghe sơ qua, anh cảm thấy khôi hài, nhưng càng nghĩ càng thấm thía. Thấm thía là anh đã hiểu sự đơn độc. vì mất vợ xa con. Vốn là một người chồng tốt, người đàn ông có học thức, thế mà dám đánh đổi một tình nghĩa yêu thương gia đình vì một thú vui quen tay ‘hút thuốc’. Chính vì thê vợ anh lúc hờn lẫy mỉa mai: “Tay anh nghiền mân mê điếu thuốc còn hơn mân mê vợ”.

    Đúng thế! Tay anh mê hút thuốc lá hơn hai mươi năm, còn lấy vợ chỉ có hơn mươi năm. Nếu kể mỗi ngày anh hút trung bình 20 điếu thuốc, thì anh đã vân vê cả trăm ngàn điếu thuốc trong cả cuộc đời anh. Chẳng vì vậy mà mỉa mai anh mê thuốc lá hơn mê vợ. Câu nói càng cay cú chỉ làm khổ nhau. Vợ chồng là ân tình nghĩa nặng, hút thuốc chỉ là thói quen. Ân tình cấn thiết cho đời sống, còn thói quen có thể sửa đổi trong những điều kiện thích hợp. Nghe qua cảm thấy thật tệ hại, còn nghĩ sâu xa chuyên tình của hai đứa cũng đâu có tệ như thế. Dung và Vinh biết nhau cũng hơn ba mươi năm. Cả hai cùng ở chung dãy phố gần bến xe của một thành phố nhỏ, quen thân nhau từ lớp mẫu giáo cho đến khi vào đại học ở Sài Gòn. Gia đình anh buôn bán tạp hóa còn nhà nàng có môt quán ăn ở bến xe. Mẹ của Dung là người Huế, bà phập phà thuốc vê Cẩm Lệ cà một đời, nàng vẫn không than phiền và luôn kính trọng người mẹ.

    Lúc còn nhỏ, có một thời kỳ bọn con trai thích chơi đánh đáo bằng bao thuốc lá, Dung là nguồn cung cấp dồi dào nhất cho Vinh. Nàng thường nhặt các bao thuốc lá trong quán ăn của gia đình, rồi đổi với anh để lấy dây thun màu – Bao Ruby 10 sợi, Captain 7 sợi, Bastos đỏ 5 sợi, Bastos xanh 3 sợi và các thứ khác 2 sợi. Nàng chỉ thích bán cho anh vì được dây thun mới tinh từ tiệm buôn tạp hóa. Chẳng bao lâu nàng có hai tràng dây thun thắt mười dài nhất xóm để nhảy dây cùng bọn con gái. Cung cấp bao thuốc lá một thời gian, nàng rành hơn cả bọn con trai trong xóm. Nàng có thể phân biệt giá trị bao thuốc mới cũ, màu tem nguyên hay rách, màu tem cũ hay mới, bao nguyên hay nhàu, tên thuốc mới nội hay ngoại. Nàng biết cả mùi thuốc lá của từng loại thuốc, có thể tưởng tượng loại thuốc nào ngon mặc dầu nàng không bao giờ hút. Vinh có dịp tặng cho nàng một lon thuốc ba con mèo Cavena màu đỏ, trong đó chứa đầy viên bi chai sắc thật đẹp. Từ đó, nàng bắt đầu dùng dây thun để đổi lấy những viên bi chai màu nhóm bạn trong xóm. Nàng sưu tầm bi chai, bi sành, mộ màu hay đủ màu, trong hay đục.

    Tình bạn hai đứa trở thành một mối tình láng giềng dễ thương. Nàng vẫn còn giữ cái lon thuốc lá và các viên bi bên nàng. Dung bắt đẩu biết chưng diện, mơ mộng và biết e thẹn. Vinh thì cũng bảnh bao hào nhoáng của cậu con trai mới lớn. Anh thích chăm sóc chiếc xe Honda và thưởng thức nhạc chọn lọc. nàng khéo tay vẽ đẹp, viết văn hay và từ đó yêu làm thơ. Một bài thơ đầu tay rất ngắn nàng khoe với anh:

    Hòn bi chai long lánh

    Mắt ai tròn long lanh

    Sợi tơ trời mỏng manh

    Dệt tình em mong manh


    Vinh rất thích bài thơ đầu tay của nàng nhưng anh không biết phê bình như thế nào. Nay đọc lại vần thơ ngắn ngủi, anh càng thương xót cho cuộc tình mong manh dở dang của nàng. Có lẽ đây là lời nguyền hay tiên đoán về cuộc tình đầu đời. Trong mấy mươi năm, hai đứa chưa bao giờ nhắc lại mấy câu thơ dễ thương đầu đời.

    Khi chiến trận ở các tỉnh miền Trung gia tăng, sinh hoạt trường học bị gián đoạn. Vinh bắt chước bạn bè trang lứa tập tành cà phê thuốc lá. Gia đình vinh lo lắng cho tương lai của anh, còn Dung hay giận dỗi khóc hờn vì anh ít lui tới với nàng. Cũng chính yếu điểm này Vinh đã bắt đầu yêu và nuông chiều những hờn dỗi của nàng. Từ đó cả xóm, đứa bạn nào cũng biết mối tình của Vinh-Dung và hai đứa đổi xưng hô bằng tên không còn mày tao nữa. Chẳng bao lâu Vinh bắt đầu công khai hút thuốc nhiều hơn. Dung tặng cho anh một cái hộp quẹt zippo để hút thuốc cho oai.

    Khi yêu anh nàng yêu cả khói thuốc bay lãng đãng nhu một làn mây nhỏ quanh quẩn. Nàng có tâm trạng qua cách anh cầm điếu thuốc hay cách anh hút nhả khói thuốc.

    Nàng nhớ anh nhớ cả mùi thuốc lá của anh. Nàng thèm ngắm và nếm khói thuốc quyện trong ly cà phê đen. Nàng thường so sánh những làn khói thuốc với những đường màu sắc lả lơi của những viên bi chai. Nàng thường dụi đầu vào ngực anh trò chuyện trongnhững buổi tối sương lạnh,khói thuốc nồng làm ấm hơi thở nàng. Nàng them anh hôn ngọt ngào sau những hơi thuốc ém nóng lồng ngực. Nàng thích cầm gói thuốc mân mê trên tay. Nhất là ngồi riêng tư yên tĩnh ở bãi biển để nàng ngắm khói thuốc và so sánh với những vầng mây trắng lang thang.

    Hai đứa trở thành vợ chồng. Cuộc sống tuy đạm bạc nhưng rất hạnh phúc. Lương đi làm ít ỏi chật vật, buôn bán sinh nhai trở nên khó khăn, nàng khuyên anh bỏ thuốc. Vinh bỏ cơ xưởng, nhập vào nghề đánh cá lặn lội vùng biển để tìm đường vượt biên. Nhiều lần phải neo thuyền ngoài khơi cả tuần, anh càng hút thuốc lá nhiều. Những ngay ở trại tỵ nạn không có tiền để mua thuốc lá, phần lớn là đi hút thuốc ké. Dẫu sao đây là những ngày thấn tiên nhất của cuộc đời tha phương. Chính Dung cũng tỏ ra vui sướng vì chồng mình được thưởng thức thuốc Marlboro đỏ. Nàng khen mùi thuốc thơm vô cùng. Ngay ngày đầu tiên định cư ở Mỹ, nàng tìm đường đi ra chợ mua cả cây thuốc Marlboro đỏ cho chồng. Từ đó, anh bắt đầu trở lại hút thuốc mỗi ngày một gói.

    Sống trên đất Mỹ, Dung học hỏi nhanh chóng tư tưởng của một xã hội văn minh nhất thế giới. Nàng càng có ưu thế trong lúc tranh luận về hút thuốc, nàng bắt đầu chồng chất ‘tội hình khói thuốc’ kể lể hằng ngày inh ỏi bên tai. Đến khi có con, nàng càng lo lắng ảnh hưởng cho sức khỏe của thắng bé trong gia đình.

    - Hút thuốc lá cho cố rồi ho sù sụ, điệu này ho lao ung thư chết sớm. Hút gì cả ngày lẫn đêm chẳng bao giờ nghĩ đến sức khỏe của con cái. Hút thuốc riết làm cho răng vàng khè, nếu bợn đen, miệng hôi rùm. Hút gì quá trời cho răng cỏ nếu răng hư hết, làm môi thâm đen tay cháy vàng.

    Đúng như thế, anh vừa bước vào xe bắt đầu phật phà khói thuốc. Nằm ngồi ở đâu cũng cầm điếu thuốc trên tay, tàn thuốc rơi cháy thảm sàn nhà. Ngay cả mùi thuốc bện vào trong các bộ ghế salon, tủ quần áo và các phòng. Nàng phải theo hầu dọn mệt mỏi, đôi lúc hằn học chi tiết.

    - Gạt tàn thuốc lá để cả tuần không thấy rửa mà còn rãi từ phòng ngủ, phòng ăn cho đến nhà cầu. Trời thì nóng mồ hôi mồ kê nhuễ nhoại, vậy mà còn phì phào thuốc lá trong lúc cắt lỏ. Còn lúc trời tuyết lạnh thấu xương thì hành thân xác đi ra ngoài hút thuốc lá.

    Chẳng có oan ức gì vì sáng sớm dậy chưa kịp nựng vợ thì đã có điếu thuốc trên tay. Ngay cả sau những lúc kề cận làm tình với vợ, quay qua nhả khói thuốc để thưởng thức. Đôi lúc anh vô ý lúc vợ trang điểm chưa kịp khen đã phà khói thuốc vào mái tóc. Nhất là, mùi nước hoa đắt giá chưa được khoe đã ếm vào mùi thuốc khét.

    Những lúc nàng kể tội trạng về”khói thuốc, anh không thể đối diện và đều bỏ đi ra ngoài vì các tội trạng đều đúng và hợp lý. Anh không hiểu từ đâu bộc phát những bực dọc dồn dập. Lúc mất vợ rồi anh mới thấy mình quá đáng. Xưa kia có bao giờ nàng than phiền những nơi mịt mù khói thuốc như vũ trường , hội quán, nhảy đầm, hay tiệc tùng đám cưới. Nàng cũng chẳng bao giờ than phiền các mùi hôi nồng nặc các mùi khác như mùi đèn nhang, mùi nấu nướng nhà bếp, mùi các lọai mắm, thuốc rửa nhà, khói xe của chiếc xe cũ. Còn bây giờ nàng có thể kể lể cho anh hàng giờ.

    Nhớ thuở tay không đến Mỹ, hai vợ chồng chung lưng làm và học miệt mài. Anh trở nên người có trình độ học vấn kiến thức cao của kỹ sư hóa học. Nàng trở thành ‘housewife’ chăm lo công việc gia đình. Cũng lạ thay, anh mất tiêu đi cương vị thống lĩnh trong nhà, bắt đầu nhượng bộ cô vợ nhiều thứ. Có lẽ nàng ngồi không ở nhà, có nhiều thời giờ rảnh học đòi nhiều thứ mới lạ. Còn anh bị căng thẳng trong việc làm hảng xưởng tối ngày, khói thuốc càng bay mù mịt. Đôi khi chỉ chuyện nhảm không đâu, cũng trở nên một đề tài tranh luận căng thẳng giữa hai vợ chồng. Bắt đầu bàn cãi, anh thấy vợ mình bị ‘short ciruit’ trở lại cái danh sách ‘tội trạng khói thuốc” để phủ đầu dành thế thắng. Nhìn vào đầu hai ngón tay cháy vàng khè, anh biết lá phổi mình cũng đóng lớp. Anh không hiểu tại sao mình lại nuốt ém khói vào trong lồng phổi. Đúng thế, anh cảm thấy lồng ngực mình nặng trĩu, lá phổi của anh đã chai, con tim bị gó ép không còn rung dộng. Anh ráng bỏ nhiều lần nhưng anh càng lún sâu mãi.

    Vinh nhớ có lần bị thất nghiệp vợ anh tạm thời làm cho một cửa hàng quần áo. Anh phải ở nhà lo việc chợ búa, nấu cơm nước, và bị kiềm hãm trong việc “đốt tiền” qua những bao thuốc lá. Chính vì thế, sự buồn bực càng làm cho con người nhỏ nhoi và cảm thấy mất đi sự kính trọng từ người vợ. Quyền lực uy thế của Vinh như càng bị bóp chặt bởi người vợ của mình. Cái tư tưởng tự do ngôn luận càng làm anh thấy bị vợ lấn lướt, càng suy tư buồn bực càng cần khói thuốc để giải sầu.

    Chỉ quanh những bất bình lời qua tiếng lại, tự ái cá nhân quá lớn, đâm ra giận hờn mất khôn chẳng còn quý trọng và bảo vệ tình yêu gia đình. Dung nay có quyền tái hôn, anh có quyền ra đi sống đơn độc, chỉ có bé Vũ còn nhỏ bé đứng giữa hai ngã đường. Anh lẩm nhẩm trong miệng “Thật là không công bình cho thằng bé lên năm”. Biết như thế, Vinh vẫn châm thêm một điếu thuốc, rít một hơi thật dài, ngậm ém khói thuốc lá lồng phổi. Bỗng dưng một bàn tay nhỏ xíu bịt mắt anh, cười húc hích rồi ngờ nghệch hỏi: “Ba có biết đây là ai không?” .Vinh tức cười vì câu hỏi ngây ngô của con. Cụm hơi thuốc lá nồng sốc ngược trong cuống họng làm anh ho đến chảy nước mắt. Thằng bé thả tay đi vòng ra đằng trước băng ghế. Vinh ngồi ôm lấy con tiếp tục ho sặc sụa làm thằng bé sợ hãi. Anh tháo lấy cái mắt kiếng đen bỏ vào túi, rồi dụi điếu thuốc dưới đất. Thằng bé trố mắt nhìn anh đưa tay rờ rẫm túi quần ái tìm kiếm bao thuốc lá ngồi giận dỗi. Vinh nhìn đứa bé con đã nhanh chóng học hỏi tư tưởng ‘xấu’ về thuốc lá. Anh chau mày suy nghĩ đến bật cười, vừa quay lưng trở lại với Vũ, anh thấy Dung bước tới.

    Cả hai ngập ngừng chào hỏi. Vinh đề nghị cho bé Vũ ở với anh vài hôm, nàng lưỡng lự nhìn anh với ánh mắt ái ngại. Anh hiểu ý mĩm cười, đứng khoan thai đọc bài thơ làm quà cưới. Đây là bài thơ kỷ niêm xa xưa, anh tạm thay đổi một chút cho phù hợp với cuộc đời mới.

    Hòn bi giờ mỏng manh

    Mắt buồn ai mong manh

    Sợi tơ trời lóng lánh

    Dệt tình ai long lanh


    Dung thoáng hiện một chút xúc động, nàng đưa ngón tay vào mí mắt để giữ gìn nét trang điểm lộng lẫy trên khuôn mặt của nàng. Anh giang đôi tay ô siết lấy nàng vào lòng thân mật, nói nhỏ bên tai: “Chúc mừng em”. Dung có vẽ bối rối chẳng nói lên lời, hai tay vân vê tấm thiệp cưới. Nàng lắc đầu như từ chối, vội quay lưng về phía thánh đường . Vinh biết nàng không muốn nhớ bài thơ cũ rích của nàng.

    Dung cúi đầu nhẹ chào từ giả Vinh, dắt Vũ quay bước vào trong. Thằng bé cứ quay mặt ngược lại mếu máo nhìn cha. Còn anh quay lưng đi không dám nhìn lại. Nàng nào biết trên một tay anh còn mang hai kỷ vật - một hộp bi chai và cái hộp quẹt zippo. Anh muốn gủi tặng lại cho nàng món quà nhỏ nhưng lại đổi ý. Anh tiếc rằng đời sống vật chất ở xứ lạ quá dồi dào, con người quá tôn trọng đời sống riêng tư, đâm ra ích kỷ không còn biết hy sinh. Anh hy vọng là Dung giả vờ để cố quên đi tất cả, để tiếp bước trên con đường mới. Còn anh, đứng vào trong một tình huống nào vẫn là người thua cuộc.

    Vinh bỏ đi ra ngoài khung cảnh nhộn nhịp ngày cưới, hướng về bãi biển không hề ngoái đầu lại. Hình ảnh của biển càng gần gũi với anh. Tiếng sóng biển càng dồn dập làm gợi lại những hình ảnh yêu thương ngày xưa. Anh giờ đơn độc thả bộ dọc theo sóng biển. Anh thả những hòn bi màu xuống cho sóng cuốn đi vào lòng biển sâu. Tay cầm cái hộp quẹt zippo mân mê lưu luyến, ngón tay búng cái zippo đóng mở liên tục. Anh thèm thuồng được kéo một vài hơi thuốc lá cho ấm áp. Bỗng anh nhảy tung người ném cái hộp quẹt thật xa ra biển cả. Sau đó anh vòng chéo hai cánh tay ôm vào bả vai cho bớt lạnh lẽo. Trên bãi biển, Vinh cúi đầu chậm bước, nhìn dã tràng cát cuốn trôi và không biết đời mình sẽ đi về đâu! Xa xa tiếng chuông của nhà thờ vang lên rộn rã như lời chúc tụng sau lễ cưới. Bên trong giáo đường, Dung đang vòng tay của Hoàng mãi mê cuộc vui quên bẵng bé Vũ. Cả hai nào có biết thằng bé đang ngồi trước thềm nhà thờ khóc như mưa vì cha đi mất.

    Một cụ già dừng bên giáo đường, nhìn bé Vũ thút thít khóc. Cụ nhẩm lời cầu nguyện: “Chúa ơi! Cuộc đời này buồn hay vui, xin phần phước che chở trẻ thơ bên tình yêu của Chúa”.

    Một bóng người to lớn rọi trên sân, nắng bỗng dịu dần trên đôi vai đứa bé bất hạnh. Mùi bàn tay người đàn ông thân quen giờ nhộn nhịp theo bước chân nhảy múa reo mừng hạnh phúc. Vũ đâu hiểu niềm vui của ngày cưới là gì. Bé chỉ biết giờ đây mình ở bên bóng mát tình yêu, đó là niềm hạnh phúc cuộc đời của bé.

    Trần Cường

    June 2, 2005

  • #2
    Soi Tìm Bóng Đêm.

    Lời mở đầu- Tôi bắt đầu viết bài này năm 2006 vào lúc Mẹ tôi sức khỏe yếu kém, hoàn tất vào năm 2007 lúc cụ bà bị té bể xương mông phải nằm một chỗ khá lâu. Bạn bè con cháu thường xuyên lui tới chăm sóc Cụ, mọi người chỉ biết đau xót thương tiếc: "Cụ phải còn trả nợ cho hết kiếp này". Thật xót thương thay! Hỏi có bao nhiêu người đang sống biết được về "kiếp này", kiếp trước", kiếp sau" trong cuộc đời này hay không? Riêng tôi, thương xót cho Mẹ, tôi viết bài này đều trên ý "tưởng tượng" về một người Mẹ già cô đơn trong viện dưỡng lão- Người Mẹ già chỉ biết bó tay thương nhớ và trông ngóng con từng giây phút, ngày cũng như đêm mòn mỏi trông chờ...cho đến hết kiếp này!

    “Ầu ơ!

    Con sơ sanh mẹ bồng mẹ bế

    Con lớn khôn mỗi bước mẹ lo

    Mai đây con bước đường dài

    Mẹ đi bước ngắn, mỏi mòn mắt trông”


    Bà Giáo cất tiếng hò bài ru con ngắn ngủi, mọi người xung quanh nghe quen tai nên không ai tỏ ra phiền hà. Giọng ru con của bà càng lúc càng quyến rũ như trút hết sức lực và tâm hồn vào bài hò. Lúc thương nhớ con bà không bao giờ khóc, bà hò say sưa không biết mệt mỏi. Chỉ có khi chán chường chờ đợi bà cảm thấy chua xót và yếu đuối muốn quên thằng con yêu dấu. Nhiều lúc bà quên bẵng bài ru con do chính người chồng viết lúc mới sinh Hoàng – đứa con hiếm muộn độc nhất. Mọi người Mỹ trong viện dưỡng lão tuy không hiểu ý nghĩa, nhưng cảm xúc âm điệu ngọt ngào dịu hiền, bài hò trở nên gần gũi quen thuộc. Chẳng bao lâu ai cũng hiểu được nguyên nhân – Bà hát vì nhớ mong con.

    Còn những lúc không hò, tay chân bà chẳng để yên, luôn táy máy tẩn mẩn những thao tác trong lúc đi đứng ngồi nằm. Bà nghĩ rằng phải sống khỏe mạnh. Bà chăm chỉ tập thể dục hằng ngày để trí tuệ minh mẫn, năng hoạt động thao tác cho tay chân cho nhanh nhẹn. Bà kín đáo không muốn phô bày, nhưng những hành động thói quen củ bà trở nên nhàm chán chướng mắt. Ai ai cũng lo sợ bà Giáo bị bệnh tâm thần. Họ nghĩ - Bà muốn quên con để tự chống chỏi sự sống còn.

    Chẳng bao lâu họ hiểu được cuộc đời bà Giáo bắt đầu đơn độc ê chề từ ngày chồng mất đến lúc thằng Hoàng tốt nghiệp đại học đi làm xa. Chỉ sau khi thoát một cơn bệnh nan y, bà quyết định xin ở lại viện dưỡng lão từ thiện công cộng. Bà không muốn làm phiền đến con cái, nhất là con trẻ trưởng thành ở Mỹ. Vào viện ở chưa đến một năm, thằng con đi làm chưa đến sáu tháng, bà đã băn khoăn lo sợ không còn gặp thằng Hoàng. Những lúc nhớ con và cần con để an ủi, bà cần tự trọng và phải quên con để tự sinh sống. Đến lúc đó, bà hiểu ra cái khôi hài của cuộc sống độc lập tự do cá nhân ở một xã hội văn minh. Bà phải thưởng thức nếm mùi nuốt trọng vào để tiêu hóa cái ích kỷ của nếp sống hiện đại. Bà ngậm ngùi cay đắng – bà phải sống trọn hết một kiếp người.

    Xưa kia ở Việt Nam, bà Giáo vốn là một huấn luyện viên về thể dục thể thao. Lúc sang Mỹ bà say mê luyện thêm về Yoga, Tai Chi, ngay cả thủ thuật đấm bóp. Cho đến ngày sự nghiệp gia tài trôi theo cái chết của chồng, bà siêng năng lui tới chùa chiền và tham gia về Thiền học. Bà chỉ ước muốn tâm trí được thanh thản trong tuổi già. Nhưng vì nhớ con thường sinh ra bực dọc, bà Giáo càng muốn tìm cách nguôi quên. Bà trở về những hành thức cơ bản giữa Thiền , Yoga và đấm bóp, để giúp bà điều hòa thư thái giữa tâm, hồn, thể xác. Đến một lúc, chính bà cũng không hiểu những thao tác trở thói quen phản ứng như máy. Dường như tâm hồn bà bị xáo động tổn thương. Chỉ có Trời biết – Bà Giáo bị vướng sâu vào cái nghiệp.

    Bà Giáo sửa soạn quần áo chỉnh tề chờ thằng Hoàng từ sáng sớm mãi đến chiều vẫn không thấy thằng con. Nhìn những người bạn chung viện được con cái đón đưa từ lúc trưa, lòng bà càng nôn nóng băn khoăn hơn. Bà ngồi yên trên ghế không di động, không làm phiền một ai. Bà chẳng dám đi đâu vì sợ lạc mất thằng con hay nó đến tìm không ra mình. Bà nhất định không khóc để thằng con mới yên tâm đón bà về chơi. Chờ con mỏi mắt chẳng thấy tăm hơi, bà bực dọc trở về phòng ăn tối.

    Như mọi buổi chiều cuối tuần, cả khu viện đường vắng vẻ tĩnh mịch. Bà Giáo đưa mắt nhìn vòng quanh phòng ăn, nắm chặt hai tay trên đùi, hai chân nhịp rung đều. Bà lắc đầu qua lại như bất ý mọi thứ trong phòng ăn của viện đường. Bà quan sát mọi người đều già nua, chậm chạp cong lưng bước. Bà thấy có người ngồi lòm khòm như không còn hơi hám, lầm bầm nói mà không chịu ăn. Có người tay chân run rẩy, miệng móm nhai trều trào miếng ăn. Bà cảm thấy chóng mặt vì nhiều người qua lại dọn dẹp nhòm ngó, nhức đầu vì những âm thanh inh ỏi bên tai. Tiếng thở khò khè khạc ho, tiếng hối thúc của người y tá, cộng thêm tiếng động va chạm khi lau rửa nhà bếp. Khung cảnh bệnh hoạn làm nặng trĩu sinh khí của những dưỡng viên lớn tuổi như bà. Mùi thuốc tây và mùi thuốc sát trùng nồng nặc hơn là các món ăn tối. Nỗi sợ hãi và chán chường làm bà không nuốt hết nửa cái bánh hamburger.

    Sau bửa ăn tối chỉ còn lèo tèo vài dưỡng viên về phòng giải trí, thế mà cả căn phòng cũng ồn ào náo nhiệt. Một vài ông bà ngồi đọc báo, có nhóm ngồi coi truyền hình. Mỗi người có một thế giới riêng biệt không ai để ý đến ai. Riêng bà Giáo ngồi thẳng người trên chiếc ghế đẩu, vẻ mặt â sầu chán chường. Hai tay bắt vào nhau để trên đùi, đôi chân nhịp rung đều. Đầu bà hơi cúi xuống, nhắm đôi mắt lại, thở ra vào khoan thai cho đến năm mười phút. Khi mở mắt ra, hai bàn tay chà mạnh vào nhau và đắp vào mắt. Sau đó hai bàn tay vuốt vòng trên gò má. Bà biết mình còn tỉnh, nhớ vanh vách mọi chuyện xa xưa. Chỉ có mỗi thằng Hoàng không đến thăm làm cho bà hoang mang bần thần suốt ngày. Bà vẫn còn giận dữ trong lòng vì chờ con cả ngày không gặp được. Bà quyết phải đuổi cái bong vía xui xẻo đang quấy nhiễu cái hạnh phúc của mẹ con bà. Nhìn quanh phòng, may sao tìm được mảnh báo. Bà đưa cặp mắt láo liên, chụp lấy tờ báo vội vo tròn thành một cọng nhỏ để làm nhang. Rồi bà bật khóc òa lên, cầm nhang giấy xoay tám hướng khấn vái thật lớn.

    “ Chúa tôi chúa tôi, Nam Mô A Di Đà Phật, cầu xin ơn trên dẫn dắt con của con đến thăm. Thần thánh ơi hỡi thần thánh ơi, Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát, tám hướng định quân thần xin dẫn dắt thằng con trời đánh nhớ mẹ đến thăm mẹ già…Ấy ôi oan linh cô cậu chú cô bác xin đừng quấy nhiễu tình thương mẹ con tôi…Công tằng tổ tổ công tằng tổ tỷ, tổ tiên sư cha thằng con trời đánh, nuôi mày lớn rộng cánh bay nhảy chẳng nhớ đến cái mẹ già này!...”

    Như thường lệ cả phòng náo loạn, bao nhiêu âm thanh như hòa hợp với cảm xúc của bà. Một số dưỡng viên khác la loáng bỏ chạy kêu cầu cứu, còn vài dưỡng viên khác xúc động khóc theo. Người y tá hiểu ý, kẹp nách đưa về phòng và dỗ dành bà nghỉ ngơi. Trong bốn bức tường trắng vây quanh đã xoa tan những ước mơ của đời sống thực tại. Tâm hồn bà như đang bị giam cầm, như bị chết cứng. Bà Giáo giận thắng con bất hiếu, hóa ra bà thao thức thương nhớ mong chờ nó sáng đêm. Bà hiểu rằng vì nhớ con quá có thể phát điên. Bà ở hoài trong viện cũng mòn mỏi không thấy ngày về. Bà nhất định sống vui sống khỏe để gặp được thằng Hoàng. Bà sẽ không còn nói nhiều la ngầy con như ngày xưa, phải luôn luôn cười để con trẻ dễ gần gũi. Bà phải cần sưa soạn cái bề ngoài và đổi mới cái tư tưởng sống của mình. Bà sẽ chiều ý nghe lời dặn dò của thằng Hoàng.

    Bà Giáo quên bẵng Hoàng nhận công việc làm ở thành phố xa lúc ra trường. Lúc thằng con gọi về hỏi thăm, bà bực bội la mắng, không cần nghe những lời lẽ trấn an. Bà cứ thắc mắc tại sao nó không về đây làm việc, cũng chẳng tin vào lời hứa đưa bà về ở chung. Thâm tâm đau đớn cho rằng thằng Hoàng muốn bà ở mãi viện dưỡng lão. Bà thắc mắc mỗi lần thằng con đến thăm, vẫn không thấy nó đưa bà về nhà, thằng con mất dậy cứ dắt bà đi chơi mua bán ăn uống ngoài đường xá. Lúc chia tay ở viện, bà bực bội la mắng như tát nước vào mặt. Bà giận vì thằng con bất hiếu, lới nói thấm chút ít hờn lẫn cay đắng. Bà giận lây luôn người bạn gái của thằng con, vì con nhỏ cứ bám sát không nhả thằng Hoàng một giây phút riêng tư. Bà nghĩ quẩn lo xa khi nó thành vợ của Hoàng, có lẽ bà không còn gặp mặt con mình nữa.

    Chẳng còn gì nhất trên đời này, hai vợ chồng bà sống yên vui bên đứa con ngoan ngoãn bao tháng năm. Chỉ có một trận bệnh chí tử, thuốc men đổ vào ông bao nhiêu cũng không đủ. Rủi thay ông kiệt quệ trong lần mổ tim sinh tử. Ông ra đi mang theo đi cả tài sản trôi ra biển rộng. Sau cái chết của người chồng, bà hãi hùng về thuốc men bên này vì không sao hiểu biết cho hết. Lời chỉ dẫn toàn tiến Anh, hỏi thăm mỗi người giải thích mỗi khác. Đụng thứ gì cũng mang ra thử máu, chụp mình, chạy quang tuyến. Bác sĩ chữa vài lần không được là mang ra mổ xẻ cắt dụt ngang xương. Bà nhớ ông Giáo thường than là uống thuốc tây nhiều nóng người và đi tiểu tiện khó khăn. Bà phải nấu nước la hán quả hay nước đậu xanh cho ông uống. Từ đó bà có dứt khoát không chịu dùng thuốc tây. Uống thuốc viên bà dấu dưới lưỡi, đổi uống thuốc bột thì bà đánh tráo, uống thuốc nước thì bà phun ra phì phèo hay ho sục sụa. Chỉ có cách là đè khóa chặt người bà mà chích thuốc vào người. Hành động áp bức càng tăng sự chống đối kịch liệt và bắt đầu hãi hùng những hình ảnh ở viện đường. Bà dùng lối thiền vào ban đêm để kín đáo chữa trị tâm trí của mình. Bà luôn luôn tỏ mình còn sáng suốt khỏe mạnh. Ngay cả thằng Hoàng, bà cũng dấu kín không cho nó biết.

    Bà thích cạo gió nhất, đau đâu cạo đó. Từ đó bà có thói quen đi lượm lặt muối tiêu, cất dấu trà tàu, tích trữ đủ loại dầu xanh và nhị thiên đường. Bà dùng đồng tiền, muổng sắt, muổng nhựa , móng tay để cạo gió. Chỉ quanh quẩn các loại nước ấm, trà tàu, chanh muối, nước gừng đủ cho bà trị nhức đầu, mỏi lưng, đau bụng hay khó khăn khó ngủ. Bà dùng ngay cả mẻ chai hay gai để cắt lấy máu bầm trong người. Bà luôn kín đáo không cho ai biết những lối chữa trị, Bà vẫn nghĩ có đứa muốn ám hại báo cho thằng Hoàng nên nó giận không đến thăm bà.

    Bà chẳng bao giờ để yên tay chân. Bà xoa vòng hai tay vào màng tang theo chiều kim đồng hồ và xoa dọc vào sóng mũi. Đôi lúc bà nắm hai tay vào nhau xoa vòng tròn: đấm lên xuống vào đầu gối; vuốt dọc hay đánh ngang vào đùi lúc đứng ngồi. Bà thường đứng chống nạnh ưỡn người đánh vòng tròn. Hai bàn tay vuốt vào đầu lúc chải búi tóc, đánh lên xuống như đánh trốnghay đánh qua lại như đánh phèn la. Hai bàn tay nhịp nhàng lên xuống như lược gạo thóc, cánh tay đánh lên xuống như gánh hàng. Tệ nhất, bà thường vòng tay ra sau gãi mông, gãi lưng, gãi vai.

    Bà có thói quen là hai bàn chân đứng thẳng nhấp lên xuống như con lật đật. Ngón chân nhúc nhích nhịp lên xuống hay nhón đi như chim. Hai bàn chân đứng vững xoay vòng nhè nhẹ đầu gối như xay gạo. Chân duo64ico lên bỏ xuống lúc đứng hay lúc nằm như diễn hành. Những thao tác giống như đẩy sào, chèo xuồng, quăng lưới. Ngay cả lúc ngồi yên một chỗ, đầu bà ngẩng lên xuống liên tục, đảo cặp mắt vòng quanh phòng nhìn từng góc cạnh của căn nhà. Mũi nhúch nhích cử động như đánh mùi và tai cứ đưa qua lại cố lắng nghe tiếng động xung quanh.

    Bà sợ ngồi không cả ngày đâm ra nghĩ ngợi mông lung buồn bã. Bà luôn tay dọn dẹp sắp xếp phòng ốc ngăn nắp khang trang. Bà lau chùi bụi bặm trong phòng suốt ngày. Bà không dám đi chân không, luôn dùng bao tay cho khỏi bị nhiễm trùng. Bà ăn ở rất sạch sẽ vì muốn sống khỏe mạnh để thằng Hoàng khỏi phải bị mắch vốn khi gặp bà. Bà đâm ra nghi ngờ không tin bất cứ một ai vì sợ chúng ám hại mẹ con bà phải xa nhau. Bà không gần gũi thân mật bất cứ một ai vì sợ chúng biết về nguồn gốc của mình. Bà lầm bầm nói chuyện một mình. Tất cả mọi giấy tờ, bà gói làm nhiều lớp, cột đeo vào người thật kỹ lưỡng. Không bao giờ mang vàng bạc đồ trang sức trên người. Bà có thói quen là hỏi đi hỏi lại, nhắc tới, nhắc lui, vì thằng con vô ý vô tứ. Mặc dầu bà không tin vào thằng con bất hiếu này, nhưng bao nhiêu tiền bạc thằng con gửi bà chẳng tiêu dùng. Bà để dành để mua đồ lau nhà, nấu ăn, cúng chùa khấn miễu cầu phước cho thằng Hoàng.

    Ở tuổi thất tuần, chính bà sống về đêm nhiều ngày hơn ban ngày. Mỗi đêm bà chì nhắm mắt được vài tiếng đồng hồ, sau đó bà trở trăn cho đến sáng. Chính thế giới mênh mông tĩnh lặng của ban đêm đã giúp bà thư thái trong từng hơi thở. Bà nghe quen những âm thanh của sinh vật xung quanh, giúp bà những ý tưởng mới lạ của những hình ảnh bên kia màn đêm. Tăng triển nhựa sống, làm linh hoạt đầu óc đã tưởng chừng già nua. Bà đã từng nghe côn trùng rền vang trong lòng đất, cắc kè rúc trong bụi đá, tiếng sóc con đi ăn đêm bên lòng cây. Bà có thể nhận biết tiếng chim lạnh lẽo rúc vào nhau dưới mái hiên nhà, tiếng ve kêu vang than thở mùa hè nóng nực. Bà thưởng thức tiếng lá vàng rơi trong đêm Thu hay bông hoa xào xạc trong gió Xuân. Chỉ trong đêm dài, bà mới nghe âm thanh của muôn loài trong cuộc đời ngắn ngủi còn lại của mình. Bà cũng như vạn vật trong vũ trụ tỉ tê vui buồn trong đêm. Bà tiếp tục điều hòa hơi thở khoan thai. Tâm trí bà vững vàng chờ đợi ngày trở về với cát bụi. bà không hiểu tại sao? Bà chỉ thèm gặp lại, sống gần đứa con trai duy nhất trên cõi đời này.

    Trong cái tĩnh mịch của căn phòng nhỏ bé, bà càng nghĩ mênh mang về cuộc đời của mình. Bà thong thả rảo bước quanh căn phòng mà không quấy rầy ai. Bà nhìn căn phòng tư vuông hạn hẹp, đơn giản trống trơn. Trong bóng đêm bức tường màu trắng vây quanh trở thành mầu xám lạnh tanh. Bà dựa vào song cửa, nhìn xa bên ngoài cũng chẳng thấy được gì. Tất cả lờ mờ chìm trong màn đêm. Sương đọng ướt loang cửa kính mờ câm. Lòng bà bỗng trở nên một hoang đảo buồn thiu. Bà lại trở vể nằm trên giường. Bà bắt hai tay trên ngực, duỗi thẳng hai cẳng. Bà nhắm mắt thật sát không phải mộng mị, mà để tịnh tâm giữ nhịp thở khoai thai. Bà tiếp tục thở. Bà còn sống còn mong chờ hy vọng. Cho đến khi trời sáng, muôn loài vạn vật nhiễu nhương phơi bày trước mặt bà lại bắt đầu hoảng sợ. Bà dụi mặt vào mặt vào gối nằm co quắt. Bà sợ nhớ lại những hình ảnh đau thương của gia đình và thân phận cô đơn buốt giá. Bà càng sợ nhớ mong thằng Hoàng yêu thương nhất trên cõi đời này.

    Bà thức dậy từ sáng sớm, ngồi trên giường lấy dầu xanh xoa vào hai màng tang, nhân trung và cổ. Bà chẳng buồn bước ra khỏi phòng. Bà tiếp tục nằm yên trên giường. Bà bắt hai tay chéo trên ngực, mười ngón tay đan vào nhau, hai chân duỗi thẳng. Bà hít thở ra vào thật đều đặn với không khí trong sạch mát lạnh của sớm mai. Nhịp máu trong cơ thể bà thông lưu như một mạch nguồn tươi mát hài hòa với tâm trí tuổi già của bà.

    Như thường lệ vào buổi sáng tinh mơ, mọi người đã nghe văng vẳng tiếng hò của bà thật dịu dàng dồi dào tình cảm, bắt đầu cho một ngày mới.

    “Ầu ơ!

    Con sơ sanh mẹ bồng mẹ bế

    Con lớn khôn mỗi bước mẹ lo

    Mai đây con bước đường dài

    Mẹ đi bước ngắn, mỏi mòn mắt trông”


    Trần Cường

    Jan 10, 2006

    Comment


    • #3
      Dở Dang

      Trần Cường

      Câu chuyện được viết vào tháng 3 năm 2005, nhưng sửa đi sửa lại cho đến năm 2007 mới hoàn tất . Trong Bài nhạc của Phạm Đình Chương "Người đi qua đời tôi có nhớ gì không người...", nhạc và lời rất héo hắt và thương đau. Bài viết, tôi tạm gọi "Vi và Chương" là những nhân vật có thật của thời thiếu niên. Mặc dầu vết sẹo trên tay vẫn còn, nhưng tình tiết hư cấu vẫn là những dư âm không thể nào còn nguyên vẹn...Truyện ngắn "Dang Dở" đã được đăng trong website cũ cách đây 2 năm, hôm nay tôi xin chuyển sang trang forum này và mới ACE đọc lại.



      Cánh cứa sắt hé mở, Chương đang lui cui dọn dẹp ở trong tiệm. Ngẩng mặt lên thấy Vi đang đứng trước cửa hàng.

      - Cho Vi mua ít đồ được không?

      - Cần mua gì?

      Chương quýnh quáng len chân vào trong quầy hàng, ống quần móc vào cái két bia làm cho anh lảo đảo muốn té. Miệng mấp máy cà lăm, tay cuống quýt làm đổ tháo hàng trên sàn nhà. Anh chàng vừa mệt, vừa mừng gặp người đẹp ghé mua hàng. Tim đập loạn xạ ngầu, mồ hôi ướt hết cả hai bàn tay chấm vuốt lên trán và cằm. Vi thấy tội nghiệp cho anh chàng đang dọn dẹp nhà cửa mà cố chiều khách mua đồ, loay hoay kéo mấy hộp cuộn chỉ thêu mầu cho lựa thoải mái. Nàng làm bộ vô tư nhìn chung quanh nhà còn một chút ít trang trí của đám cưới ngày hôm qua.

      - Hình như hôm qua có đám cưới phải không? Vi hỏi nhỏ nhẹ.

      - Ừ!

      - Dọn dẹp cả nhà chắc mệt lắm.

      - Ừ!

      Chương thấy mình xưng hô khó khăn, lời nói chẳng chút nào nhã nhặn. Ðôi mắt nhìn ra ngoài cửa rồi đảo chung quanh trần nhà, chẳng dám nhìn thẳng vào nàng. Anh cảm thấy cả thân người cứng đơ, mắc cỡ vì mùi mồ hôi bện vào quần áo không được sạch sẽ. Quạt trần quay vù vù, anh có vẻ nóng nảy nhưng vẫn chiều khách hàng. Chỉ thêu bóng, không bóng, một màu, hai mầu, hàng ngoại hay nội bầy đầy lênh láng trên mặt quầy cho nàng lựa thoải mái. Chính anh cũng không biết loại hàng gì và giá cả bao nhiêu.

      - Cho Vi lấy mấy cuộn chỉ thêu này. Bao nhiêu vậy?

      Chẳng đợi hỏi hết câu, Chương hối hả chạy vào gọi kiếm mẹ hỏi giá. Vì có người đẹp đang ở trong tiệm, anh ra vẻ ta đây nhanh nhẹn phóng chân nhẩy qua đống hàng đổ tháo dưới sàn nhà. Chẳng may bàn tay trái quơ đập vào tấm kiếng 5 ly, cắt vào da ngón út thật sâu. Chương nhăn nhó kẹp vết thương giữa hai đùi làm máu nhỏ xuống sàn nhà. Nhìn quanh không thấy ai, Vi nhanh nhẹn chạy tới cầm lấy tay anh giở lên cao. Một tay móc cái khăn tay mới của mình, tay kia xé vụn điếu thuốc lá để cầm máu vết cắt. Ðược diễm phúc có người đẹp chăm sóc, anh càng toát mồ hôi như tắm. Chút máu đọng trên tay chảy ngược ướt vạt áo, nàng tránh né đứng đằng sau anh. Nàng nhói với người lên để băng bó bàn tay, đầu ngực cọ êm vào lưng cho anh một cảm giác kỳ lạ. Anh càng ưỡn người đến trước cố tránh đụng chạm, đầu càng ngửa ra sau làm dịu dàng hơi thở trong mùi hương thơm mái tóc nàng. Anh ngẩn ngơ nhìn nàng lăng xăng chăm sóc cho mình, ngoan ngoãn theo mệnh lệnh sai bảo. Nàng hỏi câu nào anh trả lời câu nấy, đực mặt ra chẳng được một lời cảm ơn. Nàng lấy ly nước lọc cho anh rồi chán nản bỏ ra ngoài dựa vào cánh cửa sắt cho đến lúc anh Chấn về đến nhà.

      Sau khi hai anh em đi khỏi, Vi khép sơ cánh cửa sắt, sắp xếp mấy hộp chỉ thêu và lau sạch những vết máu trên sàn nhà. Nàng làm công chùa việc thiện ngồi trông coi cái nhà vừa được làm chủ cửa hàng, chẳng biết đây là cái may hay cái họa đuợc quen với Chương. Giờ khăn tay cũng không còn để thêu, tay hôi tanh mùi máu. Nàng thấp thỏm ra vào, rảo bước quanh tiệm xem các mặt hàng, tủ len, chỉ thêu, giày dép, tủ đồ lót đàn bà. Lục lọi hàng ra xem thì ngại, đừng ngó không thì chán ngấy. Nàng lấy tờ báo đọc chưa hết thì má Chương bước về nhà. Nàng mau mắn báo lại sự việc và trả tiền mấy cuộn chỉ thêu. Bà quyến luyến cảm ơn nàng.

      Một buổi tối mùa hè, Chương vác cái ghế bố học bài trước cửa nhà. Anh bất chợt thấy Vi đứng từ giã một người con trai ốm cao. Anh cảm thấy xôn xao tim đập liên hồi. Anh ra vẻ chăm chỉ học bài nhưng mắt vẫn liếc trộm. Hai bàn tay bóp nát vầng trán, hậm hực bức rức cuốn sách trên tay chẳng đọc đến một chữ. Gục mặt vào bàn, anh giận mình không đủ can đảm ngỏ tình với nàng. Rồi nhoài người trên ghế, tay cầm cái bút xoay vòng trên bàn, nàng đã đến gần thân thiện thăm hỏi. Chương ngồi thẳng người đưa mắt liếc về chỗ Vi đứng lúc nãy. Giọng chào hỏi thật trầm, âm thanh như nằm trong cuống họng không ai nghe được cái gì.

      - Chương học chăm vậy. Nghỉ một chút đi uống nước mía không? Nàng vui vẻ mời.

      - Giờ còn mở cửa không? Chương lầm bầm đáp lời xem thử cô ta có giỡn hay không.

      - Chắc còn, còn không có thì mình đi uống nước sinh tố.

      Chương vui như mở cờ trong bụng, nhanh chóng thu dọn sách vở đồ đạc, chạy vội vào nhà chuẩn bị.

      Nàng bước khoan thai yêu đời, còn anh lẽo đẽo mặt cúi gầm đưa cái khăn tay trả Vi.

      - Cảm ơn Vi đã giúp Chương.

      Lần đầu tiên nàng nhìn thấy hắn cười thân thiện. Nàng ỏng ẹo ghẹo anh.

      - Vi lấy cái khăn đó làm gì. Bộ không muốn giữ làm kỷ niệm à?

      Chương đực mặt cầm cái khăn trên tay nghe nàng giải thích vòng vo chuyện con gái hay mê tín dị đoan. Nàng không dám nhận lại cái khăn đã dính máu cho đó là điềm chia ly đổ vỡ. Giọng nói nàng đùa cợt ẻo lả như cô đào đóng tuồng hát bộ.

      - Bộ làm đào cho gánh hát nào vậy. Anh trêu nàng.

      - Vi chỉ giỡn chút thôi. Nàng khiêm nhường trả lời.

      - Còn kép nào vậy!

      Vi biết Chương tò mò muốn hỏi về người bạn trai của mình.

      - Anh Vũ bạn học cùng lớp với Vi ở Tam Kỳ. Bọn mình mới đi ăn kem về đó.

      Thấy anh cứ chau mày, nàng chồm người tới tinh nghịch chọc ghẹo anh tiếp.

      - Hươm… Sao Chương thấy anh Vũ đẹp trai không? Bộ không ưa anh ấy sao?

      - Biết mặt méo mặt tròn của hắn đâu mà Vi hỏi? Anh hậm hực đáp lời

      Nàng lúc lắc cái đầu khoái chí về câu trả lời không mấy nhã nhặn của anh. Chàng chưng hửng ra vẻ bực dọc, đi sát tới nói nhỏ vào tai nàng để trả đũa lại.

      - Không sợ anh chàng kép Vũ đó bỏ đào Vi nầy hay sao?

      - Í da! Chỉ là bạn… giống như Chương… có chi mà sợ.

      Chương thấy khoái chí mình đã đánh đúng đòn. Anh đứng lại nham nhở hỏi.

      - Vô duyên! Chương là bạn với Vi hồi nào?

      - Dám gọi tui vô duyên há, không là bạn… nghỉ chơi Chương luôn.

      Vi mặt mày một đống, quay lưng lại luẩy nguẩy bỏ đi về. Chương chạy sát theo sau, nắm giựt tay nàng xin lỗi nỉ non. Vi thấy anh chàng đã bị trúng độc của con gái, càng lẳng lơ làm tới cho anh lẽo đẽo năn nỉ. Vi lấy móng tay cấu vào vào da tay của anh thật đau, chau mày bĩu môi cho biết là cô ta giận lắm đó. Chương sẵn dịp nắm tay nàng, kéo chạy ngay vào hàng nước mía rồi cả hai cười húc hích với nhau. Ngồi xuống cái bàn sát bên cây me to lớn, ánh đèn vàng lu mờ chỉ vừa đủ nhìn thấy mặt nhau. Anh chẳng để ý tới, nhanh nhẩu gọi mua hai ly nhỏ. Lúc nước mía mang ra, anh sực nhớ mình quên mang tiền theo. Nàng nhìn Chương ra vẻ chán nản vì làm nàng mất mặt.

      - Vi cho bạn nợ một lần nầy nữa thôi.

      - Này, Vi rủ người ta đi uống nước mía mà. Chương cố chấp biện luận.

      Vi phẩy tay bỏ quay mặt nhìn đi chỗ khác, bật cười cho cái anh chàng cù lần lửa này. Vi đánh trống lãng sang câu chuyện khác.

      - Chương học tối ngoài hiên à! Ðêm ngủ lạnh dễ bị trúng gió lắm.

      - Ừ, chắc không sao đâu. Ngủ nhiều lần rồi.

      - Tay Chương đã đỡ chưa?

      Chương đưa cái tay đã lành bỏ lên bàn. Vi lấy tay đánh nhẹ vào tay Chương.

      - Vi còn ghi sổ chưa thèm đòi nợ. Hôm nay lại thêm cái nợ thứ hai.

      - Ừ cứ cho ghi. Ðòi nợ Chương khó lắm à. Tại hôm đó Vi làm mình run quá quýnh lên.

      - Xí, ai thèm lấy hết hồn của Chương đâu mà lo.

      - Vi đã lấy hết hồn của Chương từ lâu rồi đó, tại Vi vô tình không biết thôi.

      Vi biết anh trồng cây si trước nhà nhìn nàng đi học về mỗi ngày. Và nàng cũng không bỏ xót một ngày nào để e thẹn bẽn lẽn gặp được anh đứng chờ trước tiệm. Nàng đưa ngón tay cứ thoa vòng trên vành ly, nhìn chăm chăm vào ánh mắt Chương. Nàng thấy anh chàng này nói thiệt tình không tán tỉnh bâng quơ, nàng chẳng nói gì thêm vội đứng lên đi về. Hai đứa chẳng dám đi sát nhau vì sợ tụi nhỏ bạn trong xóm tung tin đồn thất thiệt ngày mai. Chương thì huyên thuyên nói như được xả sau lâu ngày bị bí đọng; còn Vi vòng tay tròn vào vai cúi đầu rảo bước.

      - Ai bảo là Chương cù lần. Chương cũng biết nói chuyện lắm đó. Nàng nói.

      - Hừm, ai nói xấu Chương đó.

      - Cù lần lửa chính gốc cần gì ai nói xấu. Thôi hẹn hôm khác gặp lại.

      Cả một đêm vì quá vui Chương chẳng học được thêm, trằn trọc không ngủ được. Anh thao cho đến bốn giờ sáng, vội dọn ghế bố vào nhà vì cảm thấy lạnh buốt khó chịu trong người. Ðúng như Vi nói, anh bị cảm lạnh nằm liệt giường hơn một tuần lễ. Vi thì xôn xao lo lắng, nàng hỏi thăm mấy đứa em Chương mới biết anh bị ốm.

      Hai đứa quen nhau khá lâu, thân nhau và hiểu nhau nhiều hơn. Mỗi ngày phải gặp nhau ít nhất vài lần. Không gặp thì nhớ, còn gặp nhau thì chọc ghẹo đá qua đá lại. Cũng lạ hai đứa chẳng bao giờ giận hờn nhau. Dáng vóc của Vi mảnh mai mình hạc, nhưng tánh tình bốc đồng, có chút hiếu kỳ và phiêu liêu. Anh hiểu Vi rất thắng thắn, chân tình, và dễ bị chán nản vui đó rồi buồn đó ngay. Chương thường hay ghẹo Vi.

      - Vi à! Con gái Tam Kỳ công nhận đẹp thiệt nhưng sao đa tình quá. Mình ước gì được về quê Tam Kỳ của Vi để mà tha hồ lựa chọn vợ.

      - Con gái Tam Kỳ không dám yêu mấy anh chàng xứ nẫu cù lần lửa đâu! Vi láu lỉnh chọc lại Chương.

      Thế mà cũng có lần Vi cho Chương đi chung về Tam Kỳ để dự đám cưới của người chị. Ngồi trên xe đò Tiến Lực ai cũng nghĩ hai đứa là vợ chồng. Vi dựa đầu sát vào vai Chương nói đủ thứ chuyện trên đời. Anh cứ nhìn vào trời xanh mây trôi bềnh bồng, lòng nhẹ nhàng ôm lấy hạnh phúc tầm tay. Anh không biết bao nhiêu lần liệm người hôn lên hương tóc của Vi. Nàng thấy vậy càng dụi đầu vào lòng ngực để thử con tim anh ấm áp cỡ nào. Nắng lên thật gắt, nàng mỏi mắt ngủ say trên vai, còn anh say mê ôm lấy nàng chẳng chợp mắt được. Ðến lúc anh phụ tài vỗ đùng đùng vào thùng xe, báo động mời bà con vào ăm cơm tối ở Tam Kỳ. Vi uể oải thức dậy, vươn mình ưỡn ẻo qua lại ngáp dài. Chương đỡ xốc nàng lên, kéo các hành lý ở dưới ghế ra. Cả hai nhảy xuống xe, xách hai túi xách nhỏ, quần áo xộc xệ nửa trong nửa ngoài như hai đứa giang hồ bụi đời.

      Trời chưa tối, thành phố chỉ có các quán ăn mở cửa, còn các quán hàng khác đã đóng. Chương nhìn quanh các quán ăn xập xệ hai bên đường, đông đúc các khách xe đò mọi nơi vào dùng cơm. Trên vai anh đeo cái xách tay nặng nề của Vi, tay cầm cái xách của mình. Anh cảm thấy rêm cả người, lê bước trên mặt đường chẳng để ý bụi đường quấn theo chân vào tới quán. Vi bỏ đi trước có vẻ rành như thổ địa ở đây. Nàng làm oai mua một thau nước mát và hai cái khăn nóng để làm vệ sinh. Chương càu nhàu chống đối vì muốn dùng nước ở hồ như những người khách khác, nhưng anh cũng chiều ý nàng. Làm vệ sinh xong xuôi, cả hai vào ngồi bàn gọi các món đặc biệt ở Tam Kỳ.

      Bữa cơm dọn ra thật đơn giản gồm hai đĩa gà luộc chặt từng miếng, hai chén nắm gừng, một tô canh cải và một đĩa gỏi gà. Nước canh nhợt nhạt đầy mạng mỡ trên mặt. Gỏi thì nhiều hành tây không có lá chanh. Chương nghĩ trong bụng chẳng dám hỏi “Cơm gà Tam Kỳ đây hả ?”. Chẳng đợi để mời tiếng thứ hai, anh ngồi ăn thoải mái chả để ý gì tới người bạn. Luôn miệng khen ngon và thúc hối nàng ăn. Vi sung sướng suy nghĩ đến cái hạnh phúc tình bạn êm đềm trong giây phút này. Còn anh thật thiệt tình với bữa cơm đơn giản xứ Tam Kỳ, nhìn tất cả món thức ăn hết sạch, anh tỉnh bơ nói với nàng.

      - Cái điệu này là Vi giết chết Chương rồi.

      - Ăn hết sạch gọn ghẽ mà còn than.

      - Cơm gà Tam Kỳ qủa thật là ngon. Chắc điệu này Chương phải lấy gái Tam Kỳ làm vợ quá. Ngày mai đám cưới, nếu có cô nào đẹp, xin giới thiệu cho Chương nghe.

      - Gái Tam Kỳ nào ưa cái dân nẫu cù lửa… Ðược rồi để tui lo cho!

      Vi chau mày liếc mắt ra vẻ nghi ngờ câu nói vừa ngờ nửa thực của anh chàng, nhưng vì mệt mỏi không còn sức đâu bàn cãi. Nàng đứng lên sửa soạn đi về nhà, anh xách hai cái xách tay lẽo đẽo theo sau trông thật tội nghiệp.

      - Thiệt tình mà! Cô chủ đi về làng còn có người đi theo xách đồ cho.

      - Giỏi đi cô thương, đến nhà cô sẽ thưởng… Ý quên! Ngày mai cô sẽ giới thiệu cho một người bạn. Vi cười đùa với Chương.

      Chỉ qua một vài con đường đã đến nhà người anh của Vi. Ðó là một cửa tiệm buôn bán vật liệu ở ngay trên quốc lộ. Vi tiếp đãi anh nồng hậu lần đầu tiên về thăm viếng Tam Kỳ, vả lại mỗi lần đi là mỗi lần khó, không biết anh có dịp trở về đây hay không? Nàng dặn dò tối nay sẽ đưa anh đi uống cà phê ở quán Ruộng, nhưng anh chỉ muốn nàng nghỉ ngơi cho đám cưới ngày mai. Thấy Chương ngăn cản mãi, nàng vùng vằng lấy cái xe Honda và cái xách tay rồi chạy về thẳng nhà. Cả nhà tối thui im lìm, dường như ai cũng đi ngủ sớm. Chỉ có mỗi anh Vinh dẫn Chương vào trong một phòng ngủ trên gác lửng, vội vã từ giã Chương đi xuống nhà. Chương đóng cửa phòng, vứt hành lý vào góc nhà, nằm vật trên giường ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

      Khoảng vài tiếng đồng hồ sau vừa mở mắt ngồi choàng dậy, anh thấy Vi ngồi bên cạnh. Nàng vuốt đầu tóc và bẻ cổ áo của anh. Chương mắt nhắm mắt mở hỏi phòng thay đồ, nàng làu bàu bảo Chương.

      - Không tắm rửa mà còn đòi thay đồ. Ðổi cái áo được rồi! Còn mắc cỡ gì nữa.

      Vi ra vẻ bực bội, quay lưng chỗ khác đọc báo. Chương dè dặt đứng vào sát góc phòng thay đồ. Cái lan can của cái gác lửng bằng kiếng dầy màu trắng, qua ánh sáng vàng của bóng đèn tròn, dường như lu mờ những hình ảnh xung quanh. Vừa khoác cái áo trên vai, nàng tiến tới phụ cài mấy cái nút áo. Sau đó nàng nũng nịu đu lên vai anh đi xuống nhà.

      Dọc trên quốc lộ tối đen mịt mù, ánh đèn của chiếc xe gắn máy cứ nhấp lên xuống từng nhịp. Lâu lâu một vài chuyến xe đò vượt qua mặt, tiếng xe rú trong gió muốn thổi bạt chiếc xe Honda. Vi ghì ôm eo và cắn nát vai Chương. Anh một tay ôm lấy tay lái, một tay ôm chặt lấy tay của nàng. Trời đêm trăng sáng, gió nhẹ thổi mái tóc của nàng bay bay cuốn vào khuôn mặt của hai đứa. Anh vô cùng hạnh phúc quên đi mọi mỏi mệt, cũng không còn biết con đường đi đã bao xa. Quán cà phê Ruộng trang trí bằng những túp lều tranh, đèn dầu, lu nước, bụi tre trúc xung quanh trông lạ mắt. Cà phê thì chẳng ra gì, nhạc Trịnh cứ mở xoay tua nghe đến chán. Suốt buổi tối, đôi bạn đã nói lên lời lẽ yêu thương mộng mơ, âu yếm ân cần, đôi trán gò má kề cận nhau bao lần nhưng hai đứa vẫn chưa hôn nhau. Vì thế suốt đêm Chương khó khăn chợp mắt ngủ vì lạ nhà, vừa nhớ Vi, mê mang một hạnh phúc nhẹ nhàng.

      Tiếng xe cộ ngoài quốc lộ đã inh ỏi từ tờ mờ sáng. Anh chị Vinh đã dậy lục đục chuẩn bị đồ đạc mang về trên nhà lo đám cưới . Chương cố nướng trên giường nhưng Vi đã tới nhà thật sớm để đón anh. Sau khi tắm rửa và thay quần áo xong, anh bước xuống nhà nhìn thấy Vi trong chiếc áo dài màu hồng dâu phụ đẹp vô ngần. Chương đứng ngáo ngố nhìn nàng không chớp mắt; còn nàng nhìn anh chững chạc trong bộ đồ quần tây xanh đậm, áo sơ mi trắng và cái cà vạt mầu đỏ.

      - Hôm nay Chương thiệt là bảnh trai! Vi tán tỉnh.

      - Cám ơn Vi. Còn đây là cô phụ dâu hay là cô dâu mà sao đẹp lộng lẫy qúa vậy!

      Vi sung sướng ôm cứng lấy tay anh, sau đó chở thẳng về nhà chào ba mẹ. Anh thấy khách khứa từ mọi nơi về tấp nập, mọi người đưa mắt nhìn anh chăm chăm. Anh kéo Vi đứng vào một góc nhà, nàng nắm chặt lấy tay anh trấn an hỏi.

      - Ðám cưới chắc không vui bằng đám cưới anh Chấn đâu. Sao chấm được ai chưa?

      - Chương chỉ chọn cô phụ dâu này thôi.

      Vi quay qua thụi vào người Chương mấy cái. Nàng dắt anh vào ngồi với mấy người bạn, quay vào trong lấy mấy chai nước ngọt ra tiếp. Nàng kêu người thợ chụp hình cho Vi và Chương một tấm làm kỷ niệm ở trước nhà. Nàng cứ loay hoay lo cho anh hết thứ này đến thứ khác. Nàng thừa biết, có bỏ Chương ở đây ba tháng cũng chưa mở miệng làm quen với ai. Cuối cùng, nàng cũng chiều ý để anh chàng một mình.

      Không biết tại sao, giữa Chương và Vi chỉ có hồn nhiên trong trắng một tình bạn. Ðôi bạn rất thương mến nhau, nhưng chưa bao giờ có những suy nghĩ xa xôi. Rồi chiến tranh nổi lên nhiều nơi, gia đình Chương quyết định ở lại Nha Trang sau hai lần chạy loạn. Lúc chia tay hai đứa bịn rịn, khờ khạo hứa hẹn, hy vọng còn gặp nhau trong nay mai. Nào biết đâu! Ðây là dấu hiệu của một đổi thay mất mát. Lúc vào đại học, mỗi đứa mỗi nơi gián đoạn thư từ và mất liên lạc. Chương vẫn còn thương nhớ, tiếp tục tìm kiếm nàng - Vi bổ nhiệm về Ðà Nẵng dạy học. Nàng ly dị chồng sau một năm ăn ở. Người chồng cuả nàng chính là Vũ mà anh gặp thấp thoáng trong một đêm xa xưa.

      Nghe tin gia đình Vi tan vỡ, anh cố nắn nót từ ý nghĩ trong lá thơ để thương xót an ủi nàng. Cũng như những lần khác, anh không nghĩ mình sẽ nhận thư hồi âm. Nào ngờ chỉ có mấy ngày sau, Vi tìm đến nhà trong ngày mưa gió tầm tã. Nàng cầm chiếc dù bị gió thổi bạt gãy trên tay, quần áo ướt lạnh chân tay run rẩy. Chưa kịp nói lời chào hỏi, nàng nhào vào lòng anh khóc say sưa.

      Vi quấn cái khăn vào đầu, thụng thịnh trong bộ đồ ngủ đàn ông bước ra khỏi phòng tắm. Còn Chương phụ máng quần áo trước cái quạt máy cho quần áo mau khô. Anh nhìn nàng âu yếm nói.

      - Hơn mười năm gặp lại Vi vẫn xinh đẹp như xưa. Thật là ông trời không thương cho Vi của Chương chút nào.

      Trong lúc Vi lau tóc cho khô, nàng cúi mặt cười khúc khích, ngắm nghía mình trong bộ đồ pajama trước tủ kiếng. Nàng đáp lời.

      - Vết sẹo trên tay vẫn còn nguyên, nhưng Chương không còn cù lần như ngày nào.

      Chương lẽo đẽo theo sau làm cho nàng cảm thấy khó chịu vì bộ đồ pajama rộng thênh không có đồ lót trong người. Nàng vẫn thèm ngồi cạnh kề ôm lấy anh tự nhiên như thuở nào, nhưng lại ái ngại chạy lên xuống xem quần áo khô chưa. Có lẽ nàng đã mất hạnh phúc một lần, nàng bớt lòng tin vào đàn ông trên đời. Nàng chẳng nói một lời nào, còn anh sung sướng nói cười rộn ràng. Cuối cùng anh đi ra ngoài mua ít món ăn về đãi bạn.

      Trời bên ngoài đã tạnh mưa, chút cơn gió lạnh thoảng qua song cửa sắt. Vi choàng khăn tắm qua vai mình, ngồi vào bàn học tìm cuốn sách để đọc để giết thời gian. Vi chọn cuốn “Dở Dang”, chẳng vì tựa đề cuốn truyện mà lối đóng cuốn bằng tay thật lạ mắt. Nàng mở cuốn sách, thấy tấm hình Vi và Chương chụp ở Tam Kỳ. Ðó là món quà kỷ niệm tặng anh khi dọn đi Nha Trang. Ðằng sau gáy sách, được cắt sâu vào thành một hình hộp chữ nhật, trong đó chiếc khăn trắng xếp thật gọn. Trên chiếc khăn, có một tấm giấy nhỏ “Vĩnh Biệt”. Chiếc khăn đó của Vi năm xưa.

      Vi vội vã bỏ cuốn sách lại chỗ cũ. Nàng luýnh quýnh bước lùi khỏi bàn học làm rơi chiếc khăn tắm trên sàn nhà. Nàng ngồi co quắt lại trên cái ghế salon, kéo tròng cái áo pajama qua khỏi hai đầu gối, hai tay nắm cổ áo trùm khỏi cằm. Nàng run bắn người. Nàng ngửi thấy mùi đàn ông trở lại. Vi mường tưởng lại những ngày Chương còn là một cậu học sinh, mê say đứng trước cửa đón chờ nàng. Anh đã từng làm nàng ngất ngây thơ mộng mối tình học trò thật trong trắng. Nàng đã là gái dang dở một đời chồng, không muốn hai đứa mất đi cái tình bạn thắm thiết nên thơ bao lâu nay. Qua cuốn sách “Dở Dang”, nàng hiểu rõ hạnh phúc ở một tình yêu chân phương của Chương. Nghe tiếng xe Chương vừa về, nàng giật bắn người ù chạy xuống nhà luýnh quýnh thay đồ. Nàng vội khoác cái áo sơ mi, cầm trên tay cái quần tây chưa khô. Anh linh tính ngó sang cuốn sách Dở Dang. Anh đi xuống nhà ghì chặt vai nàng vào người, tha thiết nói.

      - Vi, đó là chuyện dĩ vãng. Vi cứ coi Chương như một người bạn ngày nào, được không? Ði thay đồ kẻo bị lạnh! Ăn cơm xong rồi mình đi lấy hành lý.

      - Chương đi mua đồ ăn ở đâu mà lâu vậy. Vi cầm tay của Chương áp vào má cắn nhẹ.

      - Chương đi mua cơm gà Xỉu Xỉu ở chợ An Ðông cho Vi thưởng thức nè.

      - Chứ Chương ăn cơm gà ở Tam Kỳ chưa tởn rồi sao?

      - Thèm cơm gà Tam Kỳ lắm chứ! Nhưng đâu có dịp ăn cơm gà ở Tam Kỳ nữa đâu.

      Hai đứa sung sướng miên man kể lại những ngây thơ ngày xưa, nhất là kỷ niệm lần về Tam Kỳ ăn đám cưới. Vi cầm ly bia của Chương hớp một ngụm, chồm tới siết chặt tay Chương, nhìn bạn mình với đôi mắt chân thành.

      - Bữa cơm gà hôm nay ngon qúa! Chẳng thua gì cơm gà ở Tam Kỳ. Cả mấy năm trời, con tim của Vi mới tìm lại được sự rung động.

      Chương chắp hai tay lên mặt, đôi mắt âu yếm nhìn Vi chăm chăm. Nàng ngại ngùng vội tránh né, đứng lên dọn bàn xuống bếp rửa chén.

      Trên đường đi tới nhà Huê lấy hành lý, bụi khói xe làm cho nàng ngột ngạt khó thở. Nàng cảm thấy chóng mặt. Trong lúc anh đảo mắt kiếm chỗ đậu xe, nàng chồm tới cắn nhẹ vào vai, hôn nhẹ lên má anh. Bàn tay quyến luyến xoa tròn trên vai của anh.

      - Thôi cho Vi ở lại nhà chị Huê đêm nay. Mình gặp lại sau. Chương về ngủ ngon!

      Ngày hôm sau, Chương quay trở lại tìm Vi. Huê cho biết nàng đã lấy chuyến tàu đêm cấp tốc về Trung và để lại cho Chương một lá thơ. Anh lủi thui ra về. Khi ra khỏi đầu hẻm, đứng dưới cột đèn đường, anh lấy thơ đọc.

      Chương,

      Vi không biết nói gì để thay lời từ giã. Tình bạn của mình trong sáng và đẹp qúa. Con tim Vi bây giờ khó nói lên đôi câu tình tự yêu đương. Vi luôn qúy trọng những tình cảm Chương dành cho Vi. Gặp Chương tối nay, Vi càng yêu mến cảm phục Chương. Nhưng Vi không thể tự lừa dối chính mình mãi trong cái hạnh phúc cao đẹp tình bạn của hai đứa mình. Xin cho Vi trở về dĩ vãng. Vi tin rằng sẽ tìm lấy được tương lai riêng cho mình nay mai. Chương hãy giữ hộp sách “Dở Dang” cho mình. Vi cầu mong mình còn mãi là mạch máu nhỏ trong con tim Chương. Xin đừng cho Vi câu vĩnh biệt.

      Người bạn mến yêu của Chương

      Tường Vi…

      Comment


      • #4
        Ngõ Vắng

        Trần Cường

        October 20 , 2005

        Câu chuyện được viết vào tháng 10 năm 2005, nhưng sửa đi sửa lại cho đến năm 2007 mới hoàn tất . Bài viết nói lên những "tình nghĩa vợ chồng" lúc về già ở nơi tha hương, luôn luôn cần nghĩ đến nhau và lo cho nhau đến cuối đường đời.. Mặc dầu, nhân vật và cốt truyện đều do trí óc tưởng, không có thật, nhưng mang ít nhiều đắng cay trong đơn độc.



        Nơi góc cửa garage của căn nhà nhỏ, lão Tuân ngồi trên chiếc ghế đẩu cũ rích, người bơ phờ đầu dựa vào góc tường. Lão lừ đừ đảo mắt nhìn ngõ vắng buồn tênh, cầm ly cà phê đen đá chẳng buồn hớp lấy một ngụm. Vài chốc lão lại ngáp dài ngáp ngắn, gục đầu nghẻo cổ ra vẻ mệt mỏi, như ngán ngẩm không tìm được một nguồn vui. Lão chăm chú nhìn ly cà phê đen đã tan hết đá nhợt nhạt không còn mùi vị. Lão nghiêng mình bỏ đại ly cà phê trên sàn nhà. Thân người ngả xoài, đôi vai cụp xuống và hai tay thả lỏng xuôi theo thành ghế. Ánh nắng ban trưa rọi thu nhỏ hình bóng lão trên nền nhà. Mặt lão cúi gằm xuống như trốn tránh cái ánh sáng gay gắt, đôi mắt lờ đờ mỏi dần. Lão ngủ thiếp đi cả gần một tiếng. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên cái vầng trán nhăn nheo, càng làm hiện rõ cái nét già nua yếu ớt trên khuôn mặt.

        Đang thiu thiu, lão chợt giựt bắn người vì nghe tiếng guốc nện lộc cộc trên nền nhà. Mắt nhắm mắt mở, mặt mày nhăn nhó liếc bà Ngọ, vợ của lão đang đứng chống nạnh cau có. Lão chẳng nói lên tiếng nào, uể oải lòm khòm cầm lấy ly cà phê đá nguội lạnh nốc cạn một hơi. Chưa kịp nuốt ngụm nước trong họng, lão lại nghe mụ vợ càu nhàu cay nghiến “Ngồi đâu ngủ đó cả ngày. Lo về hưu sớm rồi chầu diêm vương sớm”.

        Lão chẳng phản ứng gì về câu nói qúa nặng nề, có lẽ lão đã nghe nhiều lần rồi quen tai. Như đui mù câm điếc, lão cúi người nhắc cái ghế lên, ngáp một hơi thật dài và ưỡn mình qua lại cho giãn xương cốt đỡ mệt mỏi. Tay xách cái ghế, tay khác gãi cái đầu hói bạc trắng ngứa ngáy, lững thững đi vào cất. Lão hậm hực lầm bầm: “Phận gái già mà còn lắm mồn, chẳng cần phí hơi chống cãi!”.

        Xưa kia lão là tướng tá oai phong lẫm liệt, giờ chỉ là công nhân hãng điện tử cũng không được trọng đãi. Đối với cái tuổi lục tuần nếu chưa xếp vào hạng lớn tuổi thì hãng xưởng đâu sa thải. Ngồi không xơi nước ở nhà hơn hai năm nay, phải thắt lưng buộc bụng riết cũng ngao ngán. Tiền thất nghiệp đã hết, tiền già chưa được lãnh, giờ cả gia đình sống trên đồng tiền trợ cấp hàng tháng của chính phủ. Lão cảm thấy bất lực không đủ sức cung phụng mức sống của gia đình như trước đây. Lão bắt đầu nhẫn nhịn chuyện qua lại mặc dầu buồn bực tánh đồng bóng đanh đá của bà vợ. Nhất là suốt ngày đối diện với lời nguyền rủa “về hưu non”. Không có con cái, không việc làm, không ân tình, không xa hoa phù phiếm trên đời. Từ đó tâm tư ước vọng của cuộc sống của lão như cây đàn chùng giây réo rắc những âm vang lạc lõng chơi vơi. Thân xác còn đó bơ phờ nhưng tâm trí lão dường như đã chết từ lâu. Anh nắng gay gắt bao trùm khu phố buồn tênh không một bóng người qua lại, ngay cả hai vợ chồng lão nhăn nhó nhìn nhau chẳng nói một lời.

        Lão bước thong thả ra ngoài sân mở vòi nước, còn minh mẫn chưa có điên đi tưới cây vào ban trưa gay gắt. Nhưng biết cặp mắt của bà vợ đang dí ngay gáy, lão nổi máu gàn cầm vòi nước đưa lên rửa mặt để trêu chọc. Bà vợ mặt mày cau có chống nạnh nhìn lão chua cay. Lão càng khoái chí dội nước từ đầu xuống tới mặt, lắc thân người qua lại làm những hạt nước văng tứ tung. Bà vợ quắc mắt nổi máu điên lên định nhảy vào dành lại cái vòi nước. Như trẻ con, lão thình lình bỏ ống nước xuống sân cỏ, vòi nước bắn xoay vòng làm bà vợ la ầm ĩ bỏ chạy. Người lão ướt mèm như tắm, đưa hai tay vuốt mặt mát mẻ. Hạt nước ướt long lanh làm bóng lượn cái đầu hói và làm phẳng lì vài cụm tóc lưa thưa chưa chấm tới tai. Cái áo thun trắng ướt sũng dính sát vào người để lộ ra những đường nét xương xẩu toàn thân lão. Hơi nước trên sân cỏ bốc lên nồng nực làm cho lão khó chịu. Lão quặp người ôm ngực, mặt mày đỏ rần ho sù sụ từng cơn không thể nào che dấu cái yếu đuối già nua. Bà vợ nhếch mép cười soi mói, cúi xuống nhặt ly cà phê, lầm bầm bỏ đi vào nhà. Còn lão đắc chí tủm tỉm cười, cầm vòi nước rửa đôi chân không trên cỏ.

        - Hôm nay ngày âm lịch là gì vậy? Lão nói vọng vào nhà hỏi bà vợ.

        - Hỏi làm gì? Bà vợ trả lời cộc lốc.

        - Nếu tôi tính không nhầm, hôm nay là ngày giỗ của thằng Tố đó bà ơi!

        Bà Ngọ bỗng dịu giọng nói lại, đưa tay lên bấm đếm ngày.

        - Ừ nhỉ, tại sao tôi quên bẵng đi mất. Ấy chết, tôi phải sửa soạn đi lên chùa để nhờ sư thầy cúng cho con.

        - Giờ đã trưa trợt còn vào chùa xin cúng làm gì. Đi ra chợ mua hoa qủa về thắp nhang ở nhà được rồi. Còn không để cuối tuần lên chùa cúng luôn.

        - Ấy thế nào được! Mình cúng ở nhà không biết đọc kinh kệ làm sao con được siêu thoát. Cúng giỗ phải đúng ngày con nó mới về được chứ. Thôi ông cứ ở nhà, để tôi nhờ sư thầy.

        Tố là đứa con trai độc nhất được ông Tuân nuông chiều như trứng mỏng. Hắn bị mất tích trong cuộc vượt biên đường bộ lúc ông còn trong trại cải tạo. Giờ chỉ biết ngồi đoán là đứa con bị thất lạc, bị Khờ Me đỏ giết hay thú dữ trong rừng ăn thịt. Từ đó dùng ngày ra đi là ngày chết của con. Trong đau đớn buồn bực bị mất đứa con trai, phật lòng chồng, bà gần gũi với chùa chiền siêng năng cúng phát sanh cho Tố. Bà tìm mọi cách đi tìm kiếm đứa con bị thất lạc, rồi quẩn trí say mê vào niềm tin của miếu đền, lên đồng, thầy pháp và bùa ngải. Có lúc mang nặng lới oán trách của lão, bà đã chai lì lần mò đi qua đến Miên để tìm con. Những năm tháng ở Mỹ, không khí gia đình được đằm thắm hơn xưa. Nhưng sự tẻ nhạt của vợ chồng đã đưa đứa con gái là Trang lạc lối vào hút sách, băng đảng, bỏ nhà ra đi. Từ đấy lão buồn bực, không còn tâm trí làm ăn, cuối cùng bị hãng xưởng sa thải. Chỉ hai năm sau, lão nhận được tin đứa con gái bị mất trong tai nạn xe hơi ở California. Bạn bè lo chôn cất giùm. Ông bà không được nhìn mặt con gái. Bà càng bị mặc cảm cố trốn tránh cái không khí nặng nề trong nhà. Còn lão sống trong hờn oán ray rức bao muộn phiền không như ý. Bao nhiêu chuyển biến ảnh hưởng đến ý nghiã cuộc sống ở cuối cuộc đời của lão.

        Sau khi bà Ngọ sửa soạn trang điểm, sắp xếp mâm cơm cho lão Tuân như thường lệ, bà vội vàng leo lên xe lái đi, chẳng thèm thưa gửi lão một tiếng thứ hai. Lão cũng chẳng cần để ý đến, hình như lão hiểu rõ tính nết của mụ vợ. Nhìn thân người bà còn trẻ đẹp và nhanh nhẹn, nhưng khuôn mặt hiện nỗi ê chề thân phận lẻ loi. Lão lắc đầu tự thán “Tối ngày cứ chùa chiền đình miễu. Kinh kệ thì ít, mê tín bá vơ thì nhiều”.

        Lão chau mày nghĩ ngợi liên miên, lững thững kéo vòi nước đi ra vườn, quên bẵng mình đang lẩn thẩn đi tưới cây trong nắng trưa gay gắt. Đầu óc chẳng được tập trung, lão đang tưới vườn rau lại nhảy qua tưới vườn hoa, qua bóng mát tưới cây. Chỉ hơn năm phút, lão đưa vòi nước dội vào đầu sói trắng bóc đã dần đổi mầu hồng. Bỗng hai tay lão xụi lơ và vòi nước rơi xuống mặt đất lúc nào không hay. Lão ôm chặt lấy thân cây, đôi mắt xốn cay vì những giọi mồ hôi lăn dài trên mặt. Mùi hơi nước bốc lên nồng nặc làm mắt lão hoa lên những vầng hơi nước đủ mầu sắc. Những tia nắng chói lóa làm lão cảm thấy chóng mặt, loạng choạng lắc đầu qua lại, thân người lảo đảo muốn té, hình ảnh của vạn vật xoay vòng. Làn gió nóng của mùa hè như thiêu đốt toàn thân. Đôi mắt lão đỏ kè miệng há hốc như thiếu dưỡng khí. Lão thấy mầu sắc của bông hoa trong sân cứ đỏ sẫm, lớn dần làm căng phồng vòng mắt. Lão xoay người dựa vào thân cây, lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Cuống họng khô đắng khó chịu, đầu nặng nề nhức buốt. Lão ôm thân cây tuột xuống đất, bò từ từ vào nhà.

        Cửa ngõ nhà trước sau để trống trơn, vòi nước tiếp tục chảy lênh láng trên cỏ. Từng ngọn hơi gió nóng bốc vào nhà mùi ẩm ướt. Lão chưa kịp thay bộ đồ ướt đã vật ngã người trên giường. Mắt nhìn ngược trên trần nhà, cảm thấy không gian căn phòng càng thu hẹp lại. Lão co ro thở dốc từng cơn. Nhắm mắt sợ hãi trốn tránh những tia ánh nắng chói lóa chiếu xuyên vào căn phòng. Lão cố gượng khép rèm song che song cửa sổ nhưng cả thân người bị cứng đơ. Lão nhìn mê man tấm hình của hai đứa con ở đầu giường, thấy chúng vẫy tay nhảy múa chào mừng. Lão bắt đầu nghe bên tai tiếng kèn réo chúa chát, trống chiên khua vang rùm beng, tiếng hét reo vui mừng từ đâu dội ngược vào trong đầu. Hai đứa con lúc có lúc không, lúc chúng cười lúc chúng khóc ỉ ôi. Lão xoay vòng hớt hãi tìm kiếm. Lão cảm thấy ngợp thở, mắt mỏi dần, đầu óc mệt thiếp mê đi lúc nào không hay.

        Trong cơn mê, lão thấy cả một quân đoàn hàng ngũ chỉnh tề đang chào đón. Lão sung sướng nắm tay hai đứa con đi duyệt thong thả, còn bà vợ hớt hãi chạy theo theo sau nhưng không sao bắt kịp ba cha con. Nhìn thấy hàng cờ của quân đoàn bay phất phới trong gió, lão cảm thấy hãnh diện đi bên hai đứa con vui chơi tung tăng. Lão bỗng nghe vài tiếng súng nổ vang, giật mình ngoái đầu nhìn lại. Lão thấy đằng sau hàng cờ rũ là một đoàn người bận quân phục trắng tinh rũ rượi khóc than. Nhìn vào khuôn mặt của hai con trắng toát, đôi mắt đỏ ngầu và môi thâm tím. Lão ớn lạnh sợ hãi, kéo hai đứa con vào lòng hoảng hốt bỏ chạy thật nhanh; còn bà vợ rượt càng nhanh hơn cũng không bắt theo kịp. Càng chạy lão cảm thấy ba cha con bị cuốn vòng vào ngọn lốc đen thui, hút xoáy sâu vào lòng đất. Đến lúc đó lão cảm thấy một bàn tay duyền bí, tung người lão lên bay lơ lửng nhẹ nhõm như bông gòn bên miệng vực. Hai đứa con tuột khỏi tầm tay lão và rơi sâu vào vực tối đen ghê rợn, chỉ còn nghe tiếng cười đùa lanh lảnh vọng lên. Ngước mắt nhìn lên cao bên vòm mây xám hạn hẹp, lão thấy bà vợ đứng lao chao rũ rượi khóc như lên đồng. Lão cố bám vào thành vực, bò trườn lên để tìm kiếm người vợ. Cố bám lên như càng tuột xuống. Vòng ánh sáng cứ nhỏ dần chỉ còn một điểm. Mặt mày lão hãi hùng vì hình bóng người vợ biến tan dần. Lão chỉ nghe tiếng vọng xuống vực sâu “Cha con ông ơi! Xin đừng bỏ tôi!”.

        Lão chợt tỉnh cơn mê biết mình la hét giẫy giụa trên giường. Lão nằm yên thở dốc dài, kéo tấm chăn đắp vào người, hãi hùng suy nghĩ về giấc mơ. Lão cảm thấy toàn thân thấm lạnh và hai bàn tay đẫm ướt mồ hôi. Cái mùi ẩm ướt của quần áo và nệm giường làm cho lão khó thở, cộng thêm cái nóng hầm ngợp ngạt của căn phòng làm cho đầu lão nhức buốt. Trong cái yên lặng tĩnh mịch của căn nhà, lão Tuân trăn trở suy nghĩ về những mất mát trong cuộc đời mình. Chính lão tự quên mình để mong sớm về gần gũi với những đứa con và tự đánh mất những niềm tin trong cuộc đời. Lão chỉ còn vỏn vẹn người vợ nơi tha phương, chính lão oán trách hất hủi và bỏ quên mất người bạn đời từ bao năm qua.

        Nghĩ đến cái vực sâu đen thăm thẳm, cái chết kề cận loanh quanh, lão cảm thấy cần bà vợ trong lúc này. Lão ú ớ trong miệng kêu bà. Lão ôm chặt lấy cái gối của bà vào người rồi dòng lệ tuôn trào ăn năn hối tiếc. Lão nhớ lại từ ngày mới cưới nhau, bà tảo tần làm ăn nuôi con, lo âu chờ đợi cho sự an toàn của chồng ở chiến trường. Bà sống thực, chung thủy, sắt son với gia đình. Chính tay bà chăm sóc, chính tay bà nuôi, chính tay bà nấu không bao giờ bỏ đói lão và các con một bữa ăn nào. Chuyện la cà chuyện trò, thần thánh đồng bóng, đua đòi xue xua là chuyện của đàn bà. Lão càng nghĩ càng bực bội cho con người dị dợm của mình, tuyệt vọng buông xuôi quá sớm. Đôi mắt lão yếu ớt ngắm tấm hình hai đứa con thân yêu bên đầu giường. Chúng đã vĩnh biệt cõi đời, mà chính lão không nhìn được mặt và không dịp tiễn đưa vĩnh biệt. Sự bất hạnh đã đẩy đưa lão bỏ quên những hạnh phúc còn trong tay. Giờ sống hoi hóp với những tiếc nuối muộn màng, con tim lão nhói đau từng cơn.

        Hối tiếc thoi thóp trong những giờ phút cuối, lão cố cầm cự cho đến khi bà Ngọ trở về. Lão nhất định phải sống để được gặp bà lần cuối, nhất định nhận lỗi của mình. Lão nhất định phải chiến thắng cho trận đánh cuối cùng của một trượng phu. Lão hoi hóp nghĩ về những hình ảnh hạnh phúc của gia đình từ thuở ban đầu. Miệng móm méo mỉm cười pha một chua chát khôi hài về cuộc đời còn lại của mình. Lão nhủ thầm “Quái gở! Không lẽ cùng ngày giỗ với thằng Tố!”.

        Đến chiều tối bà Ngọ về đến nhà thấy cửa garage còn mở trống trơn. Trong nhà lặng yên không đèn đuốc như mọi ngày. Bà đánh mùi gió ẩm từ cửa sau. Bà lên tiếng.

        - Ông nhà nó đâu mà nhà cửa bỏ trống trơn như thế này?

        Bà lật đật đi vào trong phòng ngủ, thấy lão Tuân trợn mắt tráo tráo trên giường. Chân tay tím bầm và trán toát lạnh. Cả thân người lão xụi lơ, miệng mồm kéo méo xẹo. Bà Ngọ chạy ôm lấy lão vào lòng khóc ré lên.

        - Ông ơi! Ông đừng bỏ tôi đi nghe ông! ! Ông đừng bỏ tôi sợ nghe ông!

        Bà trườn lên đầu giường lấy mấy cái gối kê đầu lên cao, hai tay giựt tóc mai và xoa bóp liên tục trên thân thể lão. Bà cảm thấy sợ hãi cái bóng tối u ám vây quanh, vội bật đèn trong căn phòng sáng trưng. Bà mở tung các rèm song cửa sổ để có chút không khí mát mẻ cho đỡ ngột ngạt. Bà lấy chai dầu gió đánh xoa khắp người, kéo cái mền đắp lên trên ngực lão cho ấm áp. Bà tiếp tục nắn xoa tay chân người chồng. Bà luýnh quýnh điện thoại nhờ bạn bè giúp đỡ. Bà oà khóc qúa lớn không ai nghe rõ được gì. Bà giận dữ đập cái điện thoại, rồi chạy ra vào chẳng biết làm sao. Cuối cùng lấy hết can đảm bấm 911 cầu cứu, sợ hãi khóc thét trên điện thoại chỉ biết nói bập bẹ vài tiếng “Help! Help! Please!”.

        Bà thất vọng không biết làm gì hơn. Bà cảm nghĩ bực bội như trói buộc chân tay vì chẳng biết giúp gì lão lúc này. Giả sử còn ở Việt Nam, bà có thể kêu cả hàng xóm phụ giúp bà lúc hoạn nạn. Bà không cầm lấy được sự bình tĩnh, không thoát được cái ý nghĩ là lão đang đi vào con đường chết. Hai tay bà bóp chặt vào nhau, đập vào tường, ôm lấy mặt khóc ròng than thở.

        - Ông ơi! Ông đừng bỏ tôi nghe! Tại sao phải là tôi? Tại sao ông có hiểu cho tôi!

        Bà tiếp tục dùng dầu nóng thoa mạnh trên ngực của lão Tuân. Bà cầm lấy bàn tay, cúi xuống ôm lấy đôi vai của lão khóc nức nở. Bà rũ người hôn khắp mặt, áp má vào lồng ngực, ôm cứng lấy thân lão. Bà tiếc rẻ một tình nghĩa đã bỏ quên hơn chục năm nay. Bà khóc vật vã, hai tay cứ đập lên trên ngực của lão. Nước mắt tràn trụa càng nhoà trắng cả căn phòng. Bà ngả người nằm dài trên giường ôm chặt lấy đôi tay lạnh lẽo. Bà thấy trái tim của lão vẫn còn thở hoi hóp. Bàn tay lão cố bóp chặt vào tay bà. Bà ngồi bật dậy quan sát người lão, thấy đôi mắt lão vẫn nhắm nhưng ứa lệ chảy dài trên đôi má, mặc dầu miệng mồm cứng ngắt chẳng cử động được.

        Bà sung sướng vì còn chút hy vọng cứu người chồng. Ba cố đưa hết sức lực vào hai bàn tay gầy guộc, xốc bế người lão lên để đưa đi cấp cứu. Cả thân người lão trì nặng xuống, những ngón tay lão cố bấu nhẹ vào lưng bà. Bà niệm Phật liên hồi. Nhìn người chồng hoi hóp, nước mắt ông tiếp tục chảy dài trên má. Bà Ngọ nín khóc và tung cửa chạy thẳng ra ngoài đường kêu cứu. Đứng trước cửa nhà, bà thất vọng vì chẳng thấy một bóng người. Bà lại chắp tay ngước lên bầu trời tối đen, tiếng cầu xin than van bỗng khóc oà làm vỡ tan không gian tĩnh mịch. Bà chạy hớt hãi ngoài đường, đập cửa đánh thức khu nhà hàng xóm. Bà chỉ biết cầu cứu “Help! Help! Please!”. Như một linh tính cảm thông, cả khu xóm vội vã chạy lại nhà bà lo cho ông và an ủi bà.

        Ánh sáng đỏ của xe cấp cứu chớp nháy xoay vòng hiện trên tấm tường trắng, cũng đủ tỏ để bà nhìn tấm ảnh gia đình. Bao nhiêu kỷ niệm thương yêu của Tố, Thùy Trang, và người chồng trở về chớp nhoáng trong đầu. Bà càng nhận thấy những bất ý vây quanh bên đời mình. Tiếng nói ồn ào trong phòng ngủ, làm đầu óc bà cứ hoang mang trong cầu xin người chồng thoát đại nạn. Đôi mắt bà đờ đẫn, cảm giác ớn lạnh len lén vào tâm hồn. Bà Ngọ ngồi ngoài phòng ăn chỉ biết niệm Phật. Bà ngồi cụp người trên lòng ghế như bất động, đưa đôi mắt lờ đờ nhìn vào mâm cơm lạnh tanh trên bàn. Chính bà cũng không can đảm để thưởng thức những bữa cơm gia đình với ông. Bà đã từng chạy trốn bỏ mặc lão cô đơn ở nhà, chính cái lạnh nhạt của mình đã nguội lạnh như mâm cơm lúc này. Bà đâu nghĩ đây là mâm cơm còn nguyên cuối cùng. Một khối mặc cảm tự ti giam cầm những giận hờn không đâu bỗng bùng nổ tan biến trong tâm hồn bà. Như một linh tính, bà hoảng hốt chạy vào trong phòng ngủ, ôm lấy lão Tuân lay mạnh.

        - Ông ơi! Dậy đi ông! Ông đừng làm tôi sợ. Xin ông tha lỗi cho tôi.

        Mặc cho bà kêu réo, bà chẳng thấy một cảm giác nào từ thân người của lão Tuân. Lúc bà ngẩng mặt lên nhìn xung quanh, cả căn phòng thật im lặng mọi người đã đi ra bên ngoài. Bà vội ôm lão sát vào lòng thèm thuồng làn hơi nồng ấm áp còn xót lại trên người chồng. Bà hôn nâng niu những dòng lệ ân tình cuối còn đọng trên khuôn mặt trước khi lão nhắm mắt ra đi. Giờ chỉ còn mình bà khóc tiếc người chồng thật lẻ loi. Bà nhỏ nhẹ gọi “Anh Tuân ơi! Giờ anh đã nhẹ nhàng toại nguyện...”.

        Người tụ lại càng lúc càng đông, di động nhúc nhích bu cứng. Họ thương xót nhìn một bóng người vật vã trên nền nhà. Một đoàn người áo trắng cúi đầu đẩy chiếc xe phủ tấm vải trắng đi vào trong khung trời đen tối.

        Bóng đêm phủ nhẹ một màn sương trắng che khuất chiếc xe cấp cứu. Tiếng còi hụ nhỏ dần tan biến. Giờ chỉ còn một ngõ vắng tĩnh lặng. Bên ngọn đèn vàng lu mờ, lời cầu nguyện của người đàn bà bạc mệnh thật lẻ loi, nhẹ nhàng độ lượng. Bên ngoài từng cơn gió thổi xào xạc những chiếc lá khô bay cuộn bay nhẹ nhàng trong đêm.

        Comment


        • #5
          Đọc buồn quá xá đi anh Cường ơi...
          https://www.doquanmusic.net

          Comment


          • #6
            Anh Cường viết văn hay quá chừng mà ngừng ngang uổng lắm , viết tiếp cho tụi em đọc và giải khuây anh Cường ơi .

            Comment


            • #7
              Chiếc Lá Ven Sông

              Trần Cường

              May 20, 2005

              Câu chuyện được viết vào tháng 5 năm 2005, nhưng sửa đi sửa lại cho đến năm 2007 mới hoàn tất. Nhân vật, cấu trúc hình ảnh "Xóm Lá" và cốt truyện đều do trí óc tưởng tượng. Bài viết muốn nói lên một ý niệm - Dù bất cứ hoàn cảnh cuộc sống ta thay đổi như thế nào, nhưng cũng có những lúc con người cũng muốn tìm về những nguồn gốc cội nguồn quê hương chính mình.




              Bóng cây xanh mướt sau cơn mưa làm hiện rõ những con đường hẻm đất đỏ xình lầy, chen lẫn với mầu nâu của những mái nhà bằng lá, bằng tôn xen kẽ lụp xụp nghèo nàn không đủ che nắng che mưa. Giây điện giăng ngang dọc chùng thấp trong xóm, các nọc lưới đánh cá dựng giăng phơi ngổn ngang cùng các thuyền nan đen úp ngửa . Mực nước sông mầu xám đục chảy siết dâng lên bìa xóm, có một vài ngõ hẻm nước đã lên tới cổ chân. Rác rưới và cây lá dồn ngập đày ven sông dâng mùi hôi tanh nồng nặc. Dân địa phương dùng cái tên đơn giản - Xóm Lá để nói lên cái đời sống chật vật nghèo nàn. Vì nhà cửa chằng chịt không có địa chỉ rõ ràng, khách lạ đến thăm phải hỏi thăm dân trong xóm thì mới kiếm được nhà người quen.

              Mặt trời lên đỉnh đầu cả xóm vắng vẻ bóng người qua lại. Bên con đường đất đầu hẻm, một cậu bé mặt mày lấm luốc bẩn thỉu, đôi chân lấm bùn đen đuốc. Bé bận cái quần sọt xanh bạc mầu và cái áo thun cũ rách, lủi thủi mải mê chơi bắn bi không để ý đến một ai. Bé lẩm bẩm nói chuyện và thể hiện buồn vui một mình, lâu lâu lại đưa hai tay ôm cái đầu, đôi con mắt lờ đờ nhìn về hướng ven sông. Một chặp sau bé lấy hòn đá đập nát các trái sung, mặt mày đỏ bừng như đang giận dữ việc gì. Chỉ có thế, bé cứ lập đi lập lại cho đến lúc nguôi ngoai, bé lại lấy một cành cây nhỏ, ngồi đào lỗ mải mê chơi bắn bi tiếp.

              Lúc đang chơi bé chợt nghe có tiếng đùa giỡn nhốn nháo của mấy thằng bạn. Bé ngồi chồm người dậy quan sát một đám chạy đến gần, còn đám chạy qua ngỏ hẻm khác. Cả hai đám vừa chạy vừa ngoái cổ lại trêu ghẹo.

              - Chánh chảnh banh, mất công sanh dưỡng, giờ chành hảnh chành hanh một mình.

              Sau khi đám bạn chọc chán chê rồi bỏ đi, thằng bé ngồi dựa vào cây sung tủi thân khóc cho đến lúc đôi mắt mỏi mệt lim dim buồn ngủ. Bỗng nghe ai khều vào vai hỏi thăm.

              - Này cháu, cho bác hỏi thăm. Đây có phải là xóm Lá không?

              Bé đứng dậy thật nhanh, ngơ ngác nhìn người đàn ông. Đôi mắt bé nhấp nháy vầng trán nhíu lại ra vẻ suy nghĩ. Người đàn ông hỏi tiếp.

              - Cháu có biết nhà ông bà Lành không? Cháu có thể chỉ nhà cho bác được không?

              - Dạ biết, ba má cháu mất rồi! Bác kiếm ba má cháu làm chi? Bé mạnh dạn hỏi.

              Người đàn ông đâu ngờ đứa bé là con của Lành - Người em út của ông vừa mất cách đây ba tháng. Sau khi trả lời một cách ngây thơ, bé quay lưng lủi thủi bỏ đi. Ông nhìn chăm chăm vào thằng bé mặt mày đen đuổi lấm luốt, mới nhận thấy ra cái nét của Lành, nhất là tướng đi. Ông vội vàng đeo quàng cái xách tay qua vai, tiến tới ôm lấy vai đứa bé. Thằng bé lấm lét nhẩy sang một bê muốn co giò chạy, mặc cho ông bác cố gắng dỗ dành thuyết phục. Bé chần chừ trố mắt nhìn ông từ trên xuống dưới, bé cũng thấy có một cái gì thân quen từ giọng nói đến ánh mắt. Nhất là cái cảm giác của bàn tay ông khi ôm vào vai của mình. Nó vòng tay đứng ngơ ngác không nói một lời, bắt đầu bước đảo vòng qua lại nhìn ông. Ông Lại lúng túng không biết giải thích ra sao, tiếp tục dỗ dành.

              - Bác Lại đây! Bác là anh hai của ba cháu! Nghe tin ba cháu mất, bác từ Mỹ về kiếm cháu. Thôi cháu đưa bác tới bạn của ba cháu là ông bà Quý, có được không?

              Bé chắp hai tay đằng sau chau mày suy nghĩ, lủi thủi bỏ đi chẳng nói thêm lời nào, còn ông vội vàng đi theo sau. Nắng buổi trưa càng nóng nực gay gắt, bé Chánh loắng thoắt đi thật mau, rồi dừng lại đứng chờ ra vẻ sung sướng. Hai bàn tay thọt vào túi quần giữ các viên bi kêu lẻng kẻng. Ông bác thì mồ hôi nhuễ nhoại chiếc áo sơ mi tuột xộc xệ ra ngoài lưng quần, khập khiểng bước trên con đường đất cố bắt kịp thằng cháu muốn hụt hơi. Chỉ quanh co vài đường hẻm, ông thấy một người đàn bà đứng trong quán nói.

              - Chánh! Con đi đâu từ sáng đến giờ mới về. Đi đâu phải cho thím biết nghe không?

              - Dạ thưa có bác Lại kiếm ba con.

              Bà Mai niềm nở mời ông vào nhà, rồi quay sang bảo Chánh vào báo tin cho chồng bà đang cho heo ăn ở sau nhà. Thằng bé ngoái cổ nhìn người bác vẻ mặt sung sướng rồi bỏ chạy vào trong. Ông Lại đưa mắt nhìn theo, lòng ông nhẹ nhàng vui mừng tìm được đứa cháu. Bà Mai vừa bán hàng vừa lấy nước mời ông. Ông đến cái bàn xếp nhỏ, sửa soạn quần áo gọn gàng. Ông rút cái khăn tay lau mồ hôi ở mặt và cổ, còn chiếc áo sơ mi của ông ướt đẫm trên lưng. Ông đi vòng quan sát sinh hoạt buôn bán và khung cảnh sơ xài chật chội của xóm Lá. Bà Mai vừa nhanh nhẩu bán hàng vừa nôn nóng kể đứt đoạn câu chuyện về cái chết của vợ chồng Lành.

              - Ngày hôm đó như thường lệ, cháu Chánh ra bờ sông đón ba mẹ buôn bán chợ ở Xổm phiá bên kia sông về. Trong lúc ba mẹ cháu thu xếp đồ đạt lên bờ, nó ngồi chơi bắn bi với mấy đứa nhỏ trong xóm. Cháu bất cẩn bị trượt chân rơi xuống sông vì cố chạy theo chặn viên bi lại. Không may cái áo của cháu móc vào vòng giây kẽm gai cũ quấn chằng chịt vào cột nhà sàn dưới lòng sông. Chú Lành vội vã nhảy ngay xuống sông mải lo cứu đứa con, còn thím Lành chập choạng một mình leo lên ghe để phụ ảnh cứu cháu. Lúc cho thằng bé lên ghe, anh lại nghe mọi người nhốn nháo lặn kiếm chị Lành. Thằng bé con bị dây kẽm gai móc sướt đầy người, ảnh cũng bị thương máu me đầy người lại lặn xuống sông lo cứu vợ. Anh Qúy lo đẩy ghe đưa cháu lên bờ rồi nhảy xuống sông phụ với anh Lành kiếm chị. Hôm đó trời lại tối sầm dòng sông chảy siết, nhiều người bơi lặn cố tìm kiếm càng làm cho nước sông đục ngàu. Rốt cuộc cả xóm không cứu được cả hai. Mãi đến hai ngày sau, xác của anh chị nổi lên trôi dạt về cuối xóm…

              Nghe qua câu chuyện ông Lại xót xa đưa mắt đảo kiếm thằng cháu. Chỉ thấy ông Quý đi lên trong cái áo cũ vàng khè, quần bà ba đen bạc mầu ống cao ống thấp, hai bàn tay còn ướt chùi trên lưng áo. Ông Quý mừng rỡ nhưng lúng túng vì cái mùi cám heo còn bám, phần ông Lại ngại ngùng đưa hai tay ôm lấy trán ra vẻ nhớ lại chuyện xưa.

              - À, té ra đây là Quý bạn của Lành học chung ở Cao Đẳng Hàng Hải ở Nha Trang.

              - Đúng rồi đó! Anh em xa nhau hơn hai mươi năm, còn nhớ nhau là quý quá rồi. .

              Trong lúc ông Quý mời thuốc lá, bà Mai châm nước, ông Lại lên tiếng.

              - Gia đình anh thành thật cám ơn của cô chú đã lo chôn cất vợ chồng Lành và trông nom cháu Chánh. Chứ làm sao hai gia đình rủ nhau về đây sinh sống?

              - Bọn em tính ẩn thân nơi này gần gũi sông rạch để kiếm đường đi vượt biên. Nhưng không có thời, thất bại nhiều lần không còn vốn liếng, nên phải chôn chân ở đây.

              - Thật tội nghiệp! Lành mặc cảm làm ăn thất bại, di chuyển gia đình nhiều nơi nên mất liên lạc. May thay có chú thím báo tin cho biết.

              - Kiếm mấy ngày mới tìm ra địa chỉ cũ của anh. Tụi em gửi cầu may nhưng cũng may mắn anh nhận được tin. Tụi em vẫn nhang đèn cúng vái cho vợ chồng Lành đều đặn.

              Ông Quý cúi mặt vân vê điếu thuốc trên tay như che dấu nỗi xúc động. Bé Chánh quần áo sạch đi lên nhận người bác, khuôn mặt nũng nĩu phụng phịu đẫm đìa nước mắt. Ông Lại ôm cháu rúc vào lòng không cầm được cảm động. Giờ ông ở Mỹ xa xôi, đứa cháu út mồ côi ở quê nhà. Ông chỉ biết cáo từ theo đứa cháu mồ côi đi về nhà cho ấm cúng.

              Ông đi theo đứa cháu vào căn nhà một chái nhỏ nhắn. Căn phòng rất đơn sơ ngăn nắp, chỉ vỏn vẹn một cái giường và một tủ nhỏ. Ở dưới góc tủ là những đôi dép, đôi giầy người lớn; trên nóc tủ là tấm hình vợ chồng Lành, cái bóp cũ và cái lược. Một chiếc giường gỗ lớn kê sát gần cửa sổ, cặp mái chèo với hai giây dừa lớn cột gọn ghẽ trên góc tường. Ông vội xếp gọn các hành lý chẳng để ý thằng cháu lom khom lục lọi cái gì dưới gầm giường. Vừa thắp nhang trên bàn thờ, quay sang thấy thằng bé ngồi cúi mặt xuống đất buồn bã. Ông tiến tới ôm lấy đứa cháu bế vào lòng. Đôi tay ông bắt đầu cảm giác sợ hãi khi cả thân người bé mềm nhũn. Bé nũng nịu dụi đầu vào lồng ngực như tìm thấy nhịp đập con tim của dòng máu nóng thân thuộc. Ông ôm ghì lấy cháu cảm động sung sướng, chỉ vài phút sau đứa cháu ngủ say ngon lành trên tay. Ông tưởng nhớ lại thuở hàn vi lúc lên tám phụ giúp cha mẹ việc nhà cửa và chăm sóc các em. Ông từng bế Lành đi chơi khắp xóm, tắm rửa và ru em ngủ, thổi cơm nấu bếp lo cho em ăn, anh em luôn quấn quít chơi bên nhau. Giờ trong căn nhà lạnh lẽo trống trải, bao nhiêu kỷ niệm dấu yêu của người em lại hiện về trong trí óc ông. Hình ảnh đó giờ cô đọng ở đứa cháu ông đang bồng trên tay. Cảm xúc tiếc nuối trong ký ức len lén vào tâm hồn của một người tha phương. Phần lớn bà con họ hàng sống chết gắn bó với nhau với quê cha đất tổ, còn những ai xa xứ là họ biệt xứ hay lâu lắm mới có dịp trở về thăm. Trong cuộc đời tha hương, người thất bại không dám ngưởng mặt quay về quê nhà, người thành công giàu sang thì ít nhìn xuống dưới. Nay ông trở về, chỉ nhìn vào vài cây dừa sau vườn, ông đã xao động thèm thuồng những hình ảnh đơn sơ đằm thắm của quê nhà xa xưa.

              Sau khi đặt thằng cháu lên giường và chuẩn bị quần áo ra giếng tắm. Tay ông cầm vòng dây dừa đi ra sau nhà, ngước nhìn những cây dừa mải mê. Đã hơn hai mươi năm chưa được trèo dừa, nhưng nghĩ tới người em út quá cố ông nhất định phải leo cho đến đỉnh. Ông thọc đôi chân không vào dây dừa căng vòng vào gốc cây, hai tay ôm chặt vào thân cây nhấp người phóng. Chẳng một khó khăn nào, chỉ hơn mười nhấp ông đã leo ngồi trên bẹ dừa. Ông lấy sợi dây dừa vòng qua cổ, đưa tay bóp nắn đôi chân thốn đau đỏ rần. Ông bắt đầu xoắn bẻ dừa bỏ xuống đất kêu bình bịch. Chánh giật mình thức dậy, lồm cồm ngồi dậy nhìn qua cánh cửa sổ thấy bác Lại đang hái dừa. Bé leo nhanh qua cửa sổ, phóng ra ngoài sân reo thật lớn.

              - Bác Lại hay quá! Bác Lại giống ba của con quá!

              Ông vừa cúi xuống thì đã thấy bé Chánh loạng quạng dẫm chân lên một trái dừa, mất thăng bằng té bật ngửa người xuống mặt đất. Ông hoảng sợ, vội đưa hai tay và chân không ôm tuột dọc thân dừa xuống đất. Chánh lồm cồm bò dậy, chưa kịp phủi đất trên chân tay, thằng bé chụp lấy hai tay của người bác:

              - Bác Lại hay quá! Bác Lại giống ba của con quá!

              Vừa nói xong, bé nhìn thấy tay chân của người bác bị trầy sướt rướm máu. Thằng bé mặt mày tái mét hoảng hồn tống chạy một mạch cầu cứu. Lúc ông Quý đến nơi, thấy ông Lại đang lom khom múc nước giếng tắm, ngưởng mặt lên trời cười dòn tan rồi nói.

              - Lâu ngày tắm nước giếng mát quá! Chú mang giùm mấy trái dừa về bên nhà, chốc nữa anh chặt dừa uống. Anh cứ tưởng không còn sức leo được mấy cây dừa rồi chớ.

              Bé Chánh nhanh tay gom mấy trái dừa vào một chỗ, còn ông Quý khệ nệ mang những trái dừa về bên nhà. Ông Lại tiếp tục sải tay kéo gàu nước giếng dội vào người liên tục. Nước chảy từ trên đầu xuống mặt, miệng thèm thuồng nuốt nước nguồn quê hương thật ngọt ngào. Ông ngậm từng ngụm nước phun ra thỏa thích, miệng há hốc hú hét, hai chân nhịp nhảy sung sướng như đứa bé con. Ông cúi mặt vào miệng giếng la thật lớn.

              - I am home! Lành ơi! Anh về đây em!

              Tiếng vang dội ngược từ đáy giếng làm tươi mát cái quạnh hiu trong khu vườn nhà Lành. Ông Lại đảo mắt nhìn xung quanh, ngước mặt lên bầu trời xanh, rồi chống tay vào thành giếng nhìn thằng cháu đang sung sướng cười khúc khích. Ông tiếp tục kéo mấy gàu nước tắm ngoài sân, ngẩng mặt lên dội ào vào đầu sung sướng hét lên.

              - Oop! Yeah! Oh my gosh!

              Bé Chánh ngồi trố mắt nhìn ông cười, chẳng hiểu ông nói gì chỉ biết ông vui sướng. Chẳng đợi người nhắc, thằng bé cởi tung cái áo, chạy vào đứng bên cạnh tắm chung. Bé cũng bắt chước người bác cúi đầu la lớn xuống giếng.

              - Ba Mẹ ơi! Bác Lại nè! Vui quá!

              Ông Lại lấy gàu nước dội vào đầu Chánh. Xoay người qua tạt gàu nước vào hàng rào nhà chỗ mấy đứa nhỏ trong xóm đang núp rình nhìn hai bác cháu đang tắm, làm cả đám la lớn rã đám bỏ chạy tán loạn. Hai bác cháu cười rộn rã vì từ nay không ai được đụng chạm chọc phá Chánh nữa. Nhưng chỉ vài phút sau mấy đứa nhỏ lại kéo tới núp rình ở đàng xa hơn, lũ lượt láo nháo càng đông hơn. Tiếng cười đùa như ngày hội. Bé Chánh hãnh diện, chỉ có một buổi chiều mà cả xóm đã biết ông bác ở Mỹ về. Ai cũng muốn tò mò để biết mặt người anh của Lành, ai cũng trầm trồ khen ngợi tướng tá ông sang trọng. Tắm xong, hai bác cháu trở lại nhà ông bà Qúy. Mùi thức ăn bay thơm phức đến nhà trên, bé Chánh chạy thẳng vào bếp đứng bên cạnh thím Mai nói.

              - Thím ơi thơm quá! Con đói bụng rồi. Thím ơi! Quốc đi đâu vậy?

              - Quốc đi Tuy Hòa thăm quê ngoại đến cuối tuần mới về lại.

              - Thím ơi! Con có phải về quê nội hay quê ngoại không Thím? Bé Chánh ngước mắt lo lắng hỏi, thím Mai kéo tay bé sát vào lòng.

              - Đi đâu cũng không bằng nơi quê quán. Về đó ai ai cũng yêu thương bảo bọc mình. Thôi, con phụ dọn cơm lên nhà nghe.

              Thằng bé vừa bưng cơm lên nhà, thấy ông Lại chặt mấy trái dừa gọn gàng. Ông lấy một con dao nhỏ tước những sợi vỏ dừa tươi xanh và sơ dừa trắng ngồi thắt một con chim cho bé Chánh. Thằng cháu thích món qùa đơn sơ, bắt đầu thu hút vào người bác. Suốt bữa ăn tối, ông Lại từ tốn nói qua câu chuyện về đời sống ở Mỹ, chuyến đi về Việt Nam, chuyện gia đình của ông. Ông Quý cũng kể những đời sống khắc khổ và tệ hại của xã hội hiện nay ở quê nhà. Bé Chánh cứ lặng thinh ăn uống ngon miệng, quay qua phụ thím Mai xếp bánh pha trà. Nhìn bé Chánh thoải mái tự nhiên như người trong gia đình, ông Quý chân tình nói:

              - Em xin phép được đề nghị với anh như thế này. Anh cho em đi theo với cháu Chánh về thăm quê nhà để biết bà con hàng thân quyến. Gia đình tụi em cũng đơn chiếc chỉ có một đứa cháu trai Quốc. Chánh cũng như đứa con thứ hai của tụi em.

              - Cảm ơn cô chú nhiều! Tôi…

              - Em cũng thưa với anh là tụi em định bán hai căn nhà để dọn về Tuy Hoà sinh sống. Các cháu cần phải học hành để có tương lai sau này.

              Ông Lại tỏ vẻ sung sướng đưa ly bia uống cùng ông Quý. Bé Chánh bỏ miếng bánh trên bàn, ngả người vào lòng bà Mai sung sướng. Nhìn vào ánh mắt, ông hiểu cháu muốn nói gì. Bà Mai đưa tay âu yếm vuốt tóc thằng bé.

              - Thằng Quốc nhà em hợp tính với cháu Chánh. Cứ vắng mặt thằng này thì đứa kia hỏi. Hai đứa nó giống như chú Lành với ông xã của em.

              - Gia đình anh thành thật mang ơn cô chú nhiều.

              Cuộc chuyện trò kéo dài mấy tiếng đồng hồ. Đến lúc từ giã, bé Chánh đã lăn đùng ngủ trên giường. Ông sung sướng bế đứa cháu về nhà trong trăng đêm rọi sáng lối đi. Xa xa dòng sông lấp lánh ánh trăng vàng, sóng dập dềnh ru xóm Lá ngủ say.

              Sáng sớm ngày hôm sau, ông Lại vừa mở mắt thấy thằng cháu đang ngồi bên cạnh hai mái chèo. Bé loay hoay thắt sợi dây chỉ đỏ vào con chim bằng sợi dừa, quàng vào cổ đeo trước ngực. Nghe ông bác trở mình, bé mò lại ngồi bên cạnh giường mỉm cười. Ông dắt đứa cháu ra sân sau làm vệ sinh cá nhân.

              Ông kéo lật ngược chiếc ghe nhỏ sau vườn, lau chùi và kiểm tra kỹ lưỡng rồi vác cái ghe bỏ ở trước nhà. Chánh hiểu bác như ý cha, mau mắn chạy vào nhà khiêng hai mái chèo và một cái cần câu đưa cho ông bác. Khi ông hỏi đường nào đi ra hướng mé sông, thằng bé trố mắt sợ hãi tỏ vẻ không muốn đi ra ngoài đó. Ông bác giả lơ, tiếp tục sai cháu cầm cái cần câu còn ông đội cái ghé nhỏ và tay cầm cặp mái chèo. Lúc đó ông Quý vừa đến nhà, mang theo ba ổ bánh mì thịt nóng hổi và một ly cà phê sữa nóng cho ông Lại. Cả ba cười nói rộn ràng sung sướng trên đường đi về hướng mé sông. Bọn trẻ trong xóm nhốn nháo chạy theo sau, không đứa nào dám chọc ghẹo. Chánh thân mật ngừng lại chia hai phong kẹo cao su cho lũ bạn. Người trong xóm chưa bao giờ thấy bé Chánh sung sướng như hôm nay. Cái phong thái bình dị của ông Lại, không ai tin rằng ông từ Mỹ trở về, niềm nở chào hỏi thân mật trên đường ra ven sông.

              Bình minh vừa ló dạng ở chân trời và mặt sông lặng im như tờ. Mái chèo nhẹ khua động làm lấp lánh ánh nắng ban mai. Trong chớp nhoáng chiếc ghe đã giữa dòng sông, cả ba cười nói huyên thuyên, chẳng buồn thả cần câu. Bé Chánh móc trong túi ra ba viên bi thả vào lòng sông. Dường như tâm hồn bé đã được nhẹ nhàng. Bé nằm dài vào lòng ông Quý, thả hai chân lên thành ghe mấp máy nước. Bé tiếp tục nghe người lớn kể chuyện quê nhà thuở xa xưa, những năm tháng ở xóm Lá, những kỳ vượt biên thất bại. Trong giấc mơ cuộc đời mới, bé ngủ say sưa trong lòng người ba nuôi. Ông Lại cởi áo phủ che nắng cho Chánh, rồi cầm lại mái chèo từ từ đưa ghe đi một vòng trên sông để tìm làn gió mát cho đứa cháu đang ngủ say.

              Khi trở về, ông bác mình trần trắng trẻo vác ghe và mang mái chèo đi trước, còn ông Quý bế bé Chánh đang ngủ trên tay. Nhìn tướng ông anh đội ghe đi giống y chang Lành, ông Quý tủm tỉm cười thầm kín.

              Trên tay ông Quý bế đứa bé tuy không là ruột thịt, nhưng là giọt máu còn lại của người bạn thân yêu. Tình bạn dù có cao thượng đến đâu cũng không thể bù trừ tình cốt nhục thiêng liêng. Nhìn cốt người và dáng vóc của người bác về nhận đứa cháu ruột, ông Quý cảm thấy nguồn gốc thân thế con người không thể nào thay đổi. Ngày hôm qua ông Lại trong dáng vóc của một người văn minh xa lạ, nhưng hôm nay ông ít nhiều trong cốt cách của một người chân lấm tay bùn xa xưa. Có phải chăng chỉ có quê nhà và tình thân tộc là mạch sống vĩnh cửu của con người, luôn bao dung rộng mở bàn tay đón nhận người xa xứ được về sống lại đường xưa lối cũ.

              Trên đầu ông Lại vác đội một cái thuyền nan và một cặp mái chèo. Ông có thể hãnh diện được sống lại với những nguồn vui mộc mạc đơn sơ ở quê hương. Mọi người kính trọng vào việc làm của ông – Đi tìm đứa cháu về gần gũi với gia tộc. Nhưng không ai có thể hiểu một mối lo âu hổ thẹn trong tấm lòng ông – Đứa con ruột duy nhất của ông là Steven Lee, tự đổi tên đổi họ vào lúc 18 tuổi. Hắn chưa bao giờ được ông nhắc tới trong khu xóm Lá bên sông.

              Comment


              • #8
                Cần Thiết

                Trần Cường

                March 1, 2006


                Ánh nắng ban mai chiếu xuyên qua tấm màn che làm đôi mắt tôi xốn cay nhắm díp lại. Tôi rúc vào tấm chăn cố ngủ nướng thêm một chút nào hay chút nấy. Bỗng tiếng điện thoại kêu inh ỏi bên giường, tôi lồm cồm lấy ống nghe bên đầu giường. Tôi ngái ngủ ngáp dài vài cơn, tai nghe tiếng được tiếng không thằng em út Luận nói trên phôn.

                - Trời trưa trợt rồi mà ông anh còn ngái ngủ!

                - Anh trực ca đêm ở bệnh viện mới về đến nhà ngủ bù. Chiều nay còn phải vào làm nữa. Cần gì nói đại đi cho anh ngủ một miếng!

                - Chiếc xe của em bị tông nát đêm hôm qua, gọi kiếm anh không được. Luận báo tin.

                - My gosh! Mi có sao không? Tôi bàng hoàng hỏi.

                - May mắn bị tông đằng sau đít xe người ta. Giờ không có xe đi vào sở sáng nay.

                Tiếng năn nỉ của Luận nhẹ dần, đầm ấm bên kia đầu máy như muốn tôi thông cảm. Nghe tin lần này tôi giận câm điếng người, ngồi bần thần bực dọc chẳng nói được gì vì đây là lần thứ năm hắn tông xe bị nát tan tành. Số mạng của hắn còn lớn nên chẳng bao giờ bị thương tích. Mọi lần tôi tạ ơn trên vì mạng đứa em còn của mất chẳng sao, thậm chí có lần bỏ tiền mua sắm chiếc xe khác. Chỉ mỗi cái tật lái xe háo thắng phóng hết tốc độ bám sát đít xe đằng trước trên xa lo, bánh xe phải bám sát kêu rít trên mặt đường mới cảm thấy thích thú. Đôi lúc hắn quên bẵng đi sự an toàn cho mọi người xung quanh và chính bản thân.

                Tôi gác mạnh tay cái điện thoại xuống giá đỡ chẳng muốn nghe gì thêm. Vừa nằm vật người trên giường, tiếng phôn lại vang lên hai ba lần. Tôi tháo luôn sợi giây điện thoại ra khỏi máy, chẳng muốn bị quấy rầy buồn phiền. Thật sự tôi buồn ngủ, nhưng cũng quá mệt mỏi để che chở cho đứa em ngông cuồng này. Khổ nỗi nằm trăn trở trên giường vẫn không thể nào ngủ tiếp, đầu óc tôi cứ hoang mang nghĩ đến thằng em. Tôi uể oải bước xuống giường, vò đầu gãi tai, bức kéo tóc muốn phát điên lên. Nhìn vào tấm gương soi trên tường, tôi nhận rõ nét lo âu trên khuôn mặt mình. Đó là những vết nhăn trên trán trông thật giống mẹ tôi lúc muộn phiền. Tôi cố hít thở dài để kiềm cơn bực bội trong lòng. Tôi tự hiểu rằng - Dù có giận thằng em cho mấy, tôi cũng thể nào bỏ Luận trong những lúc này. Tôi thức dậy đi sửa soạn. Bước vào trong xả nước tắm. Vòi sen phun nước chảy chậm rì mặc dầu đã mỡ tối đa. Tôi tắm không thoải mái, cảm thấy khó chịu vì xà phòng còn rin rít trên da. Tôi cầm cái khăn tắm chà mạnh vào cổ và lưng làm nóng ấm cả thân người. Đầu óc bắt đầu tỉnh táo dễ chịu hơn. Thiếu nước là chuyện bình thường hằng ngày ở mọi nơi. Cung ứng nhu cầu cần thiết không bao giờ đúng mức cho giới tiêu thụ, nhất vào lúc đòi hỏi cao điểm. Mặc dầu chuyện “thiếu nước” chẳng dính dáng về tình huống xảy ra sáng nay; nhưng ít ra tôi nhận thức Luận đang cần sự giúp đỡ tối thiểu của tôi là chở đi làm.

                Tôi ra ngoài nhà bếp mở cửa tủ lục lọi một hồi lâu chẳng biết mình muốn thứ gì. Cuối cùng hiểu ra mình thèm một ly cà phê đen nóng thật đậm để uống cho tỉnh ngủ. Bỏ vài thỏi đường vào ly, tôi cầm cái muổng trên tay khuấy đều. Mùi cà phê thơm phức nhưng chưa đủ đánh thức tâm trí. Tôi ngáp vài cơn thật dài, ưỡn người ngồi nhoài trên chiếc ghế salon ngoài phòng khách. Toàn thân người vẫn cảm thấy ớn lạnh và mỏi rã rời. Tôi áp ly cà phê nóng vào trán. Bất chợt tôi nhìn chăm chú vào màu cà phê đen đậm. Qua ánh nắng ban mai, tôi nhận thấy nước cà phê đẩy chiếc muổng nhỏ xoay vòng thành ly kêu leng keng và những cặn bã cà phê lắng dần dưới đáy ly. Tôi cảm thấy thích thú làm đi làm lại hai ba lần. Qua hiện tượng khoa học rất thông dụng của lực ly tâm, cái đầu tôi bỗng nhẹ nhàng dường như tôi đã chuẩn nghiệm được căn bệnh – Chính cái tôi sân si đã làm chính mình nhỏ bé.

                Tôi méo mó nghề nghiệp đem “căn bệnh” mổ xẻ. Tôi cần phải giúp thằng em đến sở làm sáng nay, nhưng cả thân người nặng nề bẹp dí người trên chiếc salon chẳng muốn làm gì, chẳng muốn đi đâu. Tôi phải tắm để được sảng khoái, phải có chút cà phê để tỉnh táo, phải coi chút tin tức buổi sáng. Cầm ly cà phê trên tay vẫn chưa chịu uống, còn mày mò suy nghĩ vẩn vơ, còn lưỡng lự có cần giúp hắn nữa không? Tâm cang tôi còn bực bội, dù dội nước tắm đầy đủ, khăn chà nóng người thật thoải mái, sái cà phê thật đậm ngon cũng không mang thân xác tôi ra khỏi vùng hậm hực sân si. Đương nhiên sự điều hòa giữa tâm lý và sinh lý trong tôi có lúc mưa lúc nắng. Tôi muốn nước xả mạnh vào người tắm thật đã. Tôi phân vân lựa chọn ly cà phê, hay tách trà nòng, hay cappuccino. Rồi bực bội lục lọc tìm kiếm ra đường nhưng thiếu bơ bỏ vào cà phê. Tôi ra vẻ sành điệu dùng muổng nhỏ cà phê đánh cho sủi bọt thì cà phê đen mới ngon. Tôi ỡm ờ lý sự như cụ non về lực ly tâm không đâu vào đâu. Tôi cũng chả khác gì ai. Kinh nghiệm chọn lựa quyết định mỗi lúc mỗi khác. Cái tôi cứ chần chừ lưỡng lự tính toán. Chính tôi cũng bị mù quáng vì những phù phiếm xa hoa, làm che lấp đi bản chất của nhu cầu cần thiết.

                Tôi mang nặng định kiến với Luận. Tôi la ngầy thằng em sống ỷ lại ích kỷ cho bản thân; nhưng có khôn ngoan sống yên ổn cũng vẫn cô đơn bạc phận. Tôi thường bực bội đứa em tiêu xài phí phạm làm tổn thương phước phần về sau; nhưng niềm tin về cuộc đời của hai anh em hoàn toàn khác biệt. Tôi quen sống chừng mực điều độ, ăn chắc mặc bền. Luận sống vui, sống tươi trẻ biết nhiều nguồn vui trên cõi trần gian. Hắn cũng chẳng có thua kèm gì ai, đủ mọi thứ trên đời bằng cấp, việc làm, tình yêu. Hắn luôn được bạn bè mến phục và yêu thương. Dù tốt hay xấu tôi không thể bỏ cuộc, tôi vẫn phải lo cho em. Tôi uống nốc cạn ly cà phê, vội vàng ra xe đi lên nhà Luận.

                Anh em sống tha phương trên đất Mỹ tròm trèm hai mười năm, lúc ấy Luận mới lên mười tuổi theo tôi đi vượt biên. Anh em khác biệt nhau hơn mười tuổi, tôi luôn thủ vai “quyền huynh thế phụ” thương yêu dạy dỗ em đến lúc tuổi trưởng thành. Chỉ vì không muốn phụ lòng cha mẹ, tôi luôn làm trọn bổn phận của một người anh gương mẫu. Tôi chỉ biết đi làm, đi học, lo cho em, gửi qùa về cho gia đình. Tôi không cờ bạc, rượu chè hay hút sách. Không cơm hàng quán chợ, tằn tiện dè dặt, giữ gìn nhà cửa khang trang ngăn nắp. Mặc dầu tôi chưa được khuây khỏa một vài ngày, rất hãnh diện trong vai trò mẫu mực như cha mẹ dạy lúc còn ở quê nhà. Tôi cũng chả cần nói ra, đứa em cũng hiểu được những yêu thương và hy sinh đó.

                Cuộc đời sinh sống ở Mỹ cứ xoay vòng như chong chóng, mối liên lạc giữa hai anh em càng bị ly tâm, càng cách xa nhau dần. Lúc thằng em vào đại học, tôi đi làm bận rộn tối ngày. Về đến nhà mệt nhoài người, chỉ biết nằm dập trong phòng nghỉ ngơi cho yên tĩnh. Còn Luận, ngoài việc học hành là vui chơi giao thiệp bàn bè rộng rãi. Sau khi học ra trường, anh em may mắn còn ở chung thành phố. Tôi thì làm bác sĩ ở hướng Nam, còn đứa em làm kỹ sư điện ở hướng Bắc. Nay anh em như hai dòng thái cực, đôi lúc cả tháng anh em mới gặp nhau. Vả lại anh em tôi lớn lên trong một gia đình anh chị giáo huấn, em phải tuyệt đối tuân lời khuyên dạy không dám cãi. Cái đức tính đó đã trở thành nề nếp không sửa đổi được. Khi thảo luận vấn đề gì, thường thấy Luận lặng yên không dám tay đôi bàn tán hay mau chóng đổi đề tài khác. Vì qúa yêu thương bảo bọc em, tôi luôn cứng rắn nhắc nhở, trở nên càm ràm hắn tối ngày. Luận được trưởng thành ở Mỹ, dễ nổi nóng tranh luận lớn tiếng mỗi khi bất đồng ý kiến. Anh em trai ít nhiều lời qua tiếng lại, dần dà mỗi người có một thế giới riêng tư nhưng luôn tôn trọng nhau.

                Tôi còn nhớ khi mới ra trường nhận công việc làm, tôi cho em chiếc xe cũ. Luận thích thú o bế chiếc xe hằng ngày. Có xe lại muốn tự lập đi làm kiếm chút tiền tiêu vặt. Từ đó tôi nhận Luận thường vắng mặt đi chơi với bạn, ít khi báo cáo xin phép. Hắn la cà với bạn bè, cà phê thuốc lá, hay thức trắng đêm vui chơi. Hắn tập tành bao bọc quà cáp, shopping mua sắm cho bạn gái. Luận không đồng ý ai để ý vào đời sống riêng tư của hắn. Hắn muốn tự do độc lập quyết định mọi hành động của mình, nhưng vẫn tiếp tục đòi hỏi người anh bao bọc. Đôi lúc trong túi không có tiền phải trốn nhủi trong nhà cả tuần lề mới ló mặt ra ngoài. Đường cùng túng thiếu lại về nặc ông anh.

                Tôi bắt đầu lo lắng khi Luận quyết định xin phép ra riêng ở với bạn bè vào những năm đại học. Hắn bắt đầu chơi súng, có đến ba cây khác nhau. Tháng nào hắn cũng thuê bãi tập bắn, tới mùa thì đi săn nai. Ngoài thú chơi súng, hắn thích o bế nâng cấp chiếc xe đua hai cửa, niền xe bóng láng, máy móc loa nhạc thật mạnh. Luận thích mạo hiểm như leo núi, trượt tuyết, đi săn, câu cá, nhất là bơi lặn. Có lúc hắn tập tành cá độ football, cờ bạc đỏ đen ở Las Vegas, lõm bõm đầu tư chứng khoán. Bao nhiêu tiền tiêu xài vung vãi, đua đòi sang trọng qúy phái. Đến khi đi làm kiếm được đồng lương, hắn bắt đầu đi cà phê, bi da, quán nhạc, bar. Nhất là sau khi có bạn gái, hắn theo đuổi quần áo thời trang đồ hiệu, dầu thơm trang sức, giày dép tóc tai. Cellular phôn phải thật xịn, mắt kiếng mát thật sang trọng phông độ. Đồ phải mua theo catelog, mốt đồ mới bao nhiêu tiền cũng mua. Đi làm ăn đóng bộ đồ suit, cà vạt đổi hằng ngày, giầy sắm hàng tháng. Luận trọng về nhu cầu bề ngoài. Nghĩ cho cùng, thị trường buôn bán ở Mỹ khai thác tinh xảo vào thị hiếu xa hoa, đôi khi làm lũng đoạn tư tưởng đời sống của giới trẻ.

                Môi trường sinh trưởng của hai anh em có sự khác biệt. Tôi có thể may mắn được giáo huấn trưởng thành trong đạo lý “Tiên học lễ, hậu học văn”. Sự khiêm nhường kín đáo với lối sống đơn giản không khoe khoang. Còn thế hệ của Luận lớn lên trong xã hội Mỹ tạo cho con người tự tin, dám nói, dám làm, dám bộc lộ cái tư tưởng cá nhân. Mức độ đời sống luôn được đổi mới phong phú, cách suy nghĩ được cởi mở tôn trọng hơn. Nhưng vòng đai của nhu cầu xa hoa phù phiếm đã siết chặt cuốn xoay vòng đứa em tôi trong của nếp sống Tây Phương hiện đại. Mọi sinh hoạt như máy, tư tưởng mau chóng thay đổi. Kinh nghiệm cần phải biết gạn lọc để học hỏi. Trải qua nhiều vui buồn lẫn lộn về cuộc sống trưởng thành của Luận trên đất Mỹ, tôi không thể kết tội đứa em của mình. Dẫu sao tôi mừng là Luận đã thành nhân thành tài, hắn không bị là cặn bã hay không bị ly tâm phế thải ra khỏi dòng đời.

                Kể tội nghiệp thằng em út. Kỳ này bị tai nạn Luận vẫn gọi điện thoại nhờ ông anh khó tính giúp mình trước khi báo tin cho cô vợ sắp cưới. Cứ nghĩ tới, tôi bật cười quên hết bao nhiêu mệt mỏi. Tôi mừng thầm là bao nhiêu năm bôn ba xứ người, Luận vẫn nghĩ mình là đứa em bé nhỏ, tôi phải giang rộng cánh tay bao bọc. Yêu thương đó như một hạnh phúc thiêng liêng cần thiết trong đời. Tôi hiểu ra tu thân là hành thức sống vui với hiện tại. Dù đó là những niềm vui nho nhỏ mang đến cho Luận, cũng chính là nguồn vui cho chính tôi.

                Tôi lái xe trên xa lộ trong thời giờ cao điểm cả tiếng đồng hồ. Chiếc xe chỉ có thể nhúc nhích trên đường, nhưng không làm cho tôi bị căng thẳng. Tâm hồn tôi rất nhẹ nhàng thản thơi trong nắng ban mai. Xe cộ nườm nượp nối đuôi nhau trên xa lộ đông như kiến. Khói xe bốc trắng xoá xen lẫn qua những tia nắng chói chan. Mọi người bắt đầu lăn xả vào một ngày mới đi làm việc. Nhu cầu cần thiết cho đời sống vẫn được phát triển. Đường xá tiếp tục mở rộng, các công trình xây dựng sinh hoạt náo nhiệt từ xa. Các chiếc xe bus vàng chở học sinh đến trường, các chiếc xe hàng nối đuôi nhau trườn mình qua cầu. Chiếc xe tôi cũng lăn bánh đều như những chiếc xe khác trên xa lộ sáng nay.

                Một ngày mới bắt đầu trên đất Mỹ, rất ồn ào và chậm chạp. Cuộc sống phức tạp phơi bày. Tất cả bị đẩy xô vội vã. Những lối thoát trên đường đi rất quen thuộc, đôi khi cũng bị tắt nghẽn. Sự khai thông vẫn là nhu cầu cần thiết cho mọi người, cho chính tôi!

                (Cần Thiết - Trần Cường, March 1, 2006) Revised on 041707

                Comment


                • #9
                  Nỗi Đau Còn Mãi

                  Trần Cường

                  March 10, 2005

                  Sau khi tốt nghiệp trung học kỹ thuật năm 1972, vỏn vẹn vài năm sau số bạn bè cùng khóa đã gục ngã hy sinh trên chiến trường gần như một phần ba. Bài truyện ngắn này viết riêng tặng cho các người bạn trẻ sớm ra đi bỏ lại cuộc đời bao mơ ước và tình yêu. Chúng ta là những người may mắn trên dòng thời gian lịch sử.




                  Tự Mi, chỉ nghĩ đến cái tên thôi cũng đủ làm cho trái tim giận dỗi hờn ghen suốt một đời. Nàng có mái tóc demi garcon, cặp mắt tròn to đen lánh, và đôi lông mi cong vút như một búp bê. Nàng dịu dàng lãng mạn nhưng láu lỉnh tinh nghịch. Chỉ có cái dáng tiểu thơ mình giây tha thướt với đôi môi mọng nhõng nhẽo phụng phịu, cũng đủ làm mềm nhũn trái tim của mấy anh chàng lao mình vào biển sôi lửa bỏng để tình nguyện chiều chuộng làm vui lòng nàng. Nhìn bề ngoài nàng rất sống động yêu đời, nhưng sống nặng về nội tâm và mang một mối sầu đau. Đôi lúc chính những hành động và suy nghĩ của nàng tự đánh lừa và làm rối rắm cuộc đời thêm.

                  Tự Mi là con độc nhất của một gia đình sang trọng giàu có, buôn bán xuất nhập cảng. Thường ngày nàng chỉ gặp được ba mẹ mấy tiếng đồng hồ, cả tuần cũng chưa thưởng thức một bữa ăn chính tay mẹ nấu. Nàng ở nhà một mình gần gũi với người vú nuôi, cũng là nhạc sĩ tật nguyền dạy dương cầm cho Tự Mi từ lúc nhỏ. Nàng quen thân Tiểu Hương, mến phục tài viết văn thơ linh hoạt, nét bút nhẹ nhàng sâu đậm trái ngang. Nàng yêu thầm người anh của Tiểu Hương là Nhất Minh. Nàng yêu mê mệt cái giọng Huế nhẹ nhàng trữ tình, yêu luôn cái khiếu hội họa và tài đánh đàn guitar của anh. Nàng thích nhại giọng Huế phát âm tên của anh thành ‘Nhất Mình’, vì thế bị ông anh oái ăm ghét cay đắng gắn cho nhãn hiệu vô duyên dài dài. Càng bị ấm ức cái danh vô duyên, cô ta càng bám sát cái ông anh làm cao này cho bằng được. Nhất Minh thường than phiền với Tiểu Hương.

                  - Con nhỏ Tự Mi sao nó làm phách qúa! Anh thấy con bé này vô duyên chi lạ!

                  - Hơi mô anh để ý nó làm chi rứa.

                  Khổ nỗi Nhất Minh chẳng mảy may để ý tới cô bé tinh nghịch này, mà quen mến cô láng giềng Thơ Thơ học cùng lớp với Tự Mi và Tiểu Hương. Vì ganh ghét buồn lo, Tự Mi đã bao nhiêu lần nói bóng bẩy tán tỉnh Nhất Minh, nhưng anh cho là nàng đùa giỡn. Có lần nàng mạo muội viết một lá thơ rất dài tỏ tình với anh cũng làm lơ. Nhiều lúc buồn chán tuyệt vọng nhất là chờ đợi không thấy Nhất Minh hồi âm, Tự Mi thường lái xe Honda PC đi lang thang khắp nơi không biết mình muốn đi đâu. Nàng sợ bước chân về đến căn nhà to lớn vắng vẻ càng làm con tim đơn phương nặng nề hẹn thề, đau nhói những chớm tình xót xa héo úa. Ngồi một mình trong cơn quặn đau, nàng so sánh mình với Thơ Thơ - Nàng sắt xảo nhanh nhẹn còn Thơ Thơ nhỏ nhắn nhút nhát hơn. Mâu thuẫn giữa quyền lực được gì có nấy và sự câm lặng trả lời từ chối của Nhất Minh, nàng đâm ra giận hờn Thơ Thơ ra mặt. Tiểu Hương cố khuyên nhủ nàng.

                  - Tự Mi à, Mi tấn công qúa bạo ông Minh ổng sợ. Vội yêu rồi chóng tan đó o ơi.

                  - Mình cũng nghĩ vậy, mà sao Tự Mi sợ mất ảnh quá.

                  - Tự Mi đó! Số mi sướng quá, do đó mất ông anh này thì thấy khổ. Chứ ai ai cũng khen mi đẹp mướt, con nhà đoan trang đài các.

                  Tự Mi thấy con nhỏ bạn thân nhất Tiểu Hương cũng chưa hiểu hết về nàng, thường mang cái tên ‘Tự Mi’ để giải thích khôi hài. Nàng bắt đầu không tán tỉnh thư từ và xem Nhất Minh như một người anh. Cho đến ngày anh vào đại học Luật Khoa, thường xuyên sinh họat phong trào du ca hàng tuần, bạn bè văn nghệ càng đông nên anh ít khi lui tới với Thơ Thơ và gặp Tự Mi. Nàng đã từng nghe anh hát những bài tình yêu của sinh viên, nhất bài hát Trả Lại Em Yêu chứa chất nhiều ước mơ lãng mạng. Cây đàn guitar bị xách lê la nhiều nơi nay đã cũ mèm bạc màu, vài chỗ bị bể nứt nên âm vang không còn như xưa. Hằng ngày anh học ở thư viện trường hay thư viện Quốc Gia chỉ vài tiếng đồng hồ, còn ngồi uống cà phê tán gẫu văn nghệ nhiều hơn. Do đó chỉ hết năm thứ hai đại học, anh phải nhập ngũ vào quân trường Thủ Đức. Thơ Thơ đậu tối ưu tú tài toàn và được học bổng du học ở Mỹ. Trước khi ra đi cô kiếm anh chia tay nhưng anh cứ tránh mặt. Tự Mi cùng Tiểu Hương vào trường Đại Học Sư Phạm chọn con đường mô phạm cho tương lai. Nàng lo sợ cuộc đời binh nghiệp của anh trong cuộc chiến tranh khốc liệt.

                  Một buổi sáng sớm khi sương còn đọng trên những cánh lá trên đường. Tự Mi cùng Tiểu Hương lấy chuyến xe buýt thật sớm để đi dự lễ ra trường của anh Nhất Minh ở quân trường Thủ Đức. Sau khi buổi lễ, Tự Mi gặp anh trong bộ đồ lính mầu xanh, màu da rạm nắng rắn chắt, anh chỉ hỏi bâng quơ vài câu với nàng.

                  - Em cũng không khác gì hơn xưa. Vẫn trẻ xinh như ngày nào.

                  - Cám ơn anh. Nghe anh khen làm em mắc cỡ.

                  Cả ba ngồi nói chuyện vui vẻ, có lúc anh khéo léo hỏi tin tức của Thơ Thơ. Tiểu Hương thì ra điều trách ông anh đã cố tránh mặt, riêng Tự Mi chiều ý, hứa sẽ hỏi tin tức Thơ Thơ cho anh. Nàng ngần ngại hỏi tiếp.

                  - Anh đã biết đi về đơn vị nào chưa?

                  - Dục Mỹ. Anh trả lời ngắn gọn.

                  Nghe cái tên Dục Mỹ là Tự Mi choáng váng. Ngồi trên cái băng ghế đá ngoài trời, nàng cảm thấy run sợ và con tim nhói đau. Đau vì giận mình dại khờ yêu say mê Nhất Minh, đau vì xót xa cho anh ta còn thương nhớ Thơ Thơ. Nàng run sợ vì anh sẽ nhận đơn vị ở nơi xa xôi Dục Mỹ. Bỗng dưng đôi bàn tay mềm mại của Tự Mi mang theo cái lạnh trở trời, làm cả thân người cô lạnh toát, mặt trở nên trắng bệt và đôi môi thâm tím. Nàng lảo đảo người, mắt hoa choáng váng, mồ hôi hột lấm tấm trên trán. Tiểu Hương vội vã cầm cái xách tay, còn anh bế xốc Tự Mi chạy vào trong phòng khách gọi cấp cứu. Sau khi chẩn khám, bác sĩ quân trường cho biết là Tự Mi bị bệnh tim rất nặng. Ông cấp tốc cho xe quân y đưa nàng về bệnh viện Sài Gòn để chữa trị.

                  Anh ngồi sát bên giường bệnh, âu yếm vén những sợi tóc phủ choàng trên mặt của nàng. Nhìn khuôn mặt nàng trắng bạch nhợt nhạt yếu ớt làm cho anh tội nghiệp người con gái đã yêu anh say mê lâu nay. Anh nhớ đến lá thư tỏ tình Tư Mi gửi cho anh năm nào mà anh vẫn chưa trả lời. Trong lá thơ, nàng có viết.

                  “… Tự Mi chỉ trách chính mình vì Tự Mi yêu anh qúa. Viết lá thơ tỏ tình với anh, chỉ mong anh thấu hiểu tình em. Xin đừng giận em nhé…”. Nhất Minh còn nhớ ở cuối lá thư, “Nhớ có lần nghe anh hát “ Triệu người quen có mấy người thương. Khi lìa đời có mấy người đưa”, không hiểu tại sao em đã khóc cả đêm”.. Nàng tặng anh một bài thơ.

                  “Có giọt mưa thấm tim em thuở ấy

                  Có gió mùa làm bối rối tim em

                  Có giọt nắng loanh quanh em ngày tháng

                  Có tình anh, em yêu hết cõi đời này…”

                  Nhất Minh mang nhiều mặc cảm vì nghèo, học hành dở dang. Cuộc đời anh có một chút máu nghệ sĩ lãng mạn làm cho anh xa vời với thực tế. Giờ đây cuộc đời lính chiến sống chết nay mai càng làm cho anh câm lặng. Chỉ có bấy nhiêu anh đã làm dở dang cuộc tình của hai người con gái. Từ khi vào quân trường, anh từng thấy Tự Mi khóc thầm buồn lo, anh bắt đầu có những thiện cảm với nàng. Anh nhận thấy nàng đã trưởng thành chững chạc, cái tinh nghịch bên ngoài đã dần tan mất chỉ còn lại những cô đơn khổ đau. Nhất Minh đang gục mặt ở trên giường bệnh, nghe Tự Mi xúc động nấc lên vài tiếng. Nàng nhắm mắt thở nhẹ nhàng, âu yếm nhìn anh.

                  - Anh mệt lắm không? Tại sao anh ra trại được? Em có làm phiền gì anh không?

                  - Tiểu Hương đi báo tin cho ba mẹ em. Bác sĩ quân trường cho phép anh đưa em về bệnh viện Sài Gòn, đến chiều anh phải trở lại quân trường. Tội nghiệp Tự Mi của anh!

                  Anh nắm chặt lấy tay Tự Mi làm nàng xúc động khi nghe câu “tội nghiệp”. Nàng nhủ thầm cũng chính anh nói những bóng bẩy nhẹ nhàng nửa thiệt nửa ngờ. Tự Mi nhắm siết đôi mắt sung sướng. Nàng vẫn si mê cái lãng mạng đa tình của anh. Nhất Minh kể sơ qua câu chuyện xảy ra và hứa với Tự Mi.

                  - Cảm ơn em đã đến dự lễ ra trường. Hôm nào em khỏi bệnh, anh sẽ đàn cho em hát.

                  - Anh ghẹo em phải không? Tự Mi hát thì ai thèm nghe. Tự Mi chỉ ước có lần nào mời anh đến nhà, chính tay Tự Mi đánh đàn dương cầm cho anh hát, có được không?

                  Nhất Minh đỡ Tự Mi ngồi sát thành giường, lấy ly nước đưa cho Tự Mi uống. Anh nhìn đồng hồ như trông ngóng Tiểu Hương và đắn đo suy nghĩ trước khi nhận lời mời.

                  - Ừ, có dịp anh sẽ đến thưởng thức tài đánh đàn dương cầm của Tự Mi.

                  - Nhất Minh, cảm ơn anh ban cho em cái ân huệ này.

                  Nghe câu trả lời xúc động của Tự Mi, anh thấy tâm hồn của cô nàng tuyệt vọng qúa. Anh cảm thương mối tình đơn phương của Tự Mi. Anh kéo tay nàng vào má hôn nhẹ.

                  Một tuần lễ sau đó, trong lúc ba má Tự Mi đi công chuyện bên Singapore. Tự Mi có mời Nhất Minh và Tiểu Hương đến nhà dùng cơm tối.

                  - Bộ Tự Mi muốn Tiểu Hương làm kỳ đà cản mũi hay sao? O nhớ nhẹ tay với ông anh của tui nghe? Ông là đồ cổ đó!

                  - Tiểu Hương yên tâm đi, ông anh chẳng ưa gì mình đâu? Mi mà có được ảnh yêu, chỉ chuốc thêm sầu muộn thôi.

                  Đến ngày hẹn, Nhất Minh mang một đóa hoa hồng và cây đàn guitar. Anh nhìn Tự Mi trong bộ đồ tây màu trắng đơn giản nhưng sang trọng ra đón anh. Anh đảo mắt nhìn lối kiến trúc đồ sộ làm anh ngượng nghịu bước vào nhà. Quanh phòng ăn toàn cửa kiếng, nhìn ra bên ngoài thấy cây kiểng bông hoa sặc sỡ và một cái hồ bơi lớn. Trên cái bàn ăn thật dài chỉ sắp xếp cho hai người. Một bữa tối đơn sơ do chính Tự Mi nấu. Nhất Minh tự hỏi Tự Mi giàu có cỡ này, sao lại mơ ước những cái bình thường trong cuộc sống. Nàng mang bông hồng bỏ vào bình và đặt vào giữa bàn ăn. Không khách sáo, bước vào bàn ăn giới thiệu sơ qua các món có một không hai của cô nàng. Nhất Minh ăn thiệt tình ngon lành, còn Tự Mi ngắm người mình yêu không chớp mắt.

                  Nàng để mặc Nhất Minh ở bàn ăn, bước vào đàn dương cầm bắt đầu buông những dòng nhạc lả lơi. Nhất Minh ngạc nhiên vì nàng đánh hay quá. Tự Mi ra dấu bảo anh lại gần với nàng. Trong khung cảnh thơ mộng trữ tình của lứa đôi, anh kéo cái ghế ngồi cạnh nàng và rãi nhẹ những phiếm đàn guitar. Chẳng ai hỏi ai, hai người hòa nhạc bản Không Tên Cuối Cùng của Vũ Thành An. Nàng cười sung sướng khi nghe anh cất lên tiếng hát ấm áp. Hai người cứ mê say hòa hợp dòng nhạc bài này sang bài khác, bài nào anh cũng hát. Tự Mi say sưa lướt những ngón tay trên phím đàn, ngay cả tâm hồn của cô cũng thả lỏng. Nhất Minh đã từng hát ở nhiều nơi, nhưng chưa bao giờ anh cảm thấy tâm hồn lời hát nhập tiếng đàn guitar buông ray rứt. Người vú nuôi lấp ló góc nhà thưởng thức, mặt bà tươi cười tươi vỗ tay tán thưởng. Đã là người nghệ sĩ, khi nghe những cung đàn hay thì không bao giờ từ chối đứng bên lề cuộc vui. Nàng mời vú nuôi vào hòa nhạc, bà từ tốn ngồi đánh dương cầm chung với Tự Mi. Cả ba đều say sưa trong dòng nhạc, thỉnh thoảng bà chỉnh những hoà âm guitar của Nhất Minh. Tiếng cười hòa trong tiếng nhạc tấu vang cả căn phòng đã từng im lìm từ bấy lâu nay. Một âm thanh hạnh phúc dâng tràn trong ba tâm hồn nghệ sĩ lãng mạng. Bỗng Nhật Minh dạo guitar bài “Tưởng Như Còn Người Yêu” và anh cất tiếng hát “Ngày mai đi nhận xác chồng, say đi để thấy mình không là mình. Ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy anh lính bây giờ…”

                  Bà vú bỗng xúc động cáo lui vào nhà bếp lấy hai ly bánh kem moca và kem chocolate lên cho Mi và Minh. Nàng dắt anh ra ngồi ngoài vườn ăn kem. Ánh trăng vàng rọi lấp lánh xuống bờ hồ, cơn gió nhẹ thoảng tiếng vĩ cầm du dương của vú Mai đánh phục vụ cho hai đứa trên sân thượng. Cũng lại là bài “Tưởng Như Còn Người Yêu”, nghe thật réo rắt qua tiếng vĩ cầm trên tầng cao vang xa trong đêm. Qua tâm sự của Tự Mi, anh được biết chồng bà là sĩ quan pháo binh tử trận.

                  Những ngọn gió thật nhẹ đưa những mùi hương của vườn hoa thơm ngát. Nhất Minh cảm thấy đêm nay thật tuyệt vời. Tự Mi thoát ra khỏi cái tù túng nội tâm gượng ép, anh hiểu biết nhiều cái hay ở con người Tự Mi. Nàng thú thực cho anh là cô bị đau bệnh tim từ lâu, hiện nay ba mẹ cô đang làm thủ tục giải phẫu ở nhà thương Mỹ bên Singapore. Nàng có thể ra đi giải phẫu và chữa trị bất cứ lúc nào, giữa sống chết khó mà đoán biết.

                  - Đâu có ngờ em phải đi xa chữa bệnh như vậy. Tự Mi yên chí, anh sẽ cầu nguyện cho Tự Mi ở ngoài tiền tuyến mỗi ngày. Anh chờ em trở về nghe.

                  - Cảm ơn anh Nhất Minh đã cho em một sức mạnh và niềm tin để ra đi chữa bệnh.

                  Thường thường người hậu phương cầu nguyện cho người lính ở tiền tuyến bình yên trở về, nhưng nghe anh hứa hẹn, Tự Mi cảm thấy sung sướng, có động lực mạnh mẽ đi chữa trị. Cặp mắt ân cần long lanh sáng lên, dường như muốn nói cảm ơn anh một điều gì. Tự Mi cười dòn tan rồi dụi đầu vào vai anh, nhìn lên trời đêm đầy sao lấp lánh, ước gì được có mọi ngày như hôm nay. Bỗng dưng Tự Mi rùng mình, có lẽ vì sương đêm xuống dầy đặc hay là nàng vương vấn một mối lo sợ cho ngày mai. Nhất Minh vòng tay qua vai đưa nàng vào trong nhà.

                  Anh vụng về để lại một nụ hôn nhẹ trên trán nàng khi ra về. Nỗi xúc động lâng lâng, anh quên bẵng cái đàn guitar đeo bên anh bao lâu. Qua cái những hình ảnh thật dễ thương tối nay, nàng cứ nghĩ anh cố ý để quên cây đàn. Tự Mi ôm chiếc guitar vào lòng ngủ một giấc ngon đến sáng.

                  Chỉ có một tháng sau đó, ba mẹ Tự Mi đưa cô bay sang Singapore để giải phẫu tim. Sau hai lần giải phẫu kết qủa tốt đẹp, Tự Mi luôn hỏi mẹ về tin tức bên Việt Nam về Nhất Minh và Tiểu Hương.

                  Trong lúc Tự Mi còn ở lại Singapore hồi sức, gia đình Tiểu Hương nhận được tin tử trận của Nhất Minh. Đúng người lính với tâm hồn nghệ sĩ, chưa có kinh nghiệm chiến trường là gì, anh ôm cây súng chưa được đụng chạm với địch. Chỉ chưa đến nửa tháng, anh đã bị mìn nổ tung xác trên đường về căn cứ Dục Mỹ. Tiểu Hương có báo tin cho người vú nuôi, ba mẹ Tự Mi cố dấu tin buồn.

                  Buổi sáng những áng mây trời xám kéo giăng mù mịt, lâm râm vài giọt mưa lác đác trong cơn gió bấc. Thơ Thơ nhìn qua khung cửa sổ của thánh đường, thấy những chiếc xe đưa đám tang xếp thành hàng dài. Nàng ngồi xuống ghế, kéo vòng chiếc áo len vào người vì cảm thấy lạnh tê tái. Cái lạnh lẽo cô đơn có sánh gì lúc nàng ở Mỹ, nhưng sao nàng thấy không gian xám úa dẫy dụa nằm chết quanh đôi tay của mình. Nhìn thấy Tiểu Hương và gia đình đang ngồi khóc thảm thiết, cô thụt lùi sát vào cuối ghế dấu dòng lệ làm đỏ hoen đôi mắt. Thơ Thơ càng tiếc nuối là ước gì được gặp Nhất Minh chia tay trước khi đi Mỹ để bây giờ cô bớt đau khổ. Quen nhau bao nhiêu năm, chỉ vọn vẹn hơn một năm xa nhau, đâu ngờ ngày về Việt Nam thăm cha vừa thoát cơn bạo bịnh, lại nhận đựơc hung tin Nhất Minh bị tử trận. Tiểu Hương bước tới ngồi cạnh Thơ Thơ ôm nhau mà khóc. Tiểu Hương cầm tay nàng nhỏ nhẹ nói.

                  Tự Mi bước vào thánh đường, tới ngồi cạnh Thơ Thơ. Sau vài câu chào hỏi, cả hai ngồi bất động không lên tiếng. Tự Mi dường như không nghe không thấy những gì gì chung quanh, trong tâm trí nàng chỉ có hình ảnh Nhất Minh, thuơng tiếc anh trong bao tiếc nuối khôn nguôi. Tự Mi ôm ghì chặt cái khăn quàng phủ che khuôn mặt nhưng không che dấu khỏi bồi hồi xúc động, sợi chuỗi thánh giá đong đưa giữa hai bàn tay bấu chặt vào nhau. Chốc lác, cô gục mặt vào thành ghế, đôi vai run bẩy nhấp nhô như con tim yếu đuối nhói đau từng cơn. Bao trái ngang giữa hai người bạn gái, chỉ có đi xa quê nhà một thời gian, đã có nhiều sự kiện bất ngờ xảy ra chẳng hề biết.

                  Tiểu Hương bước lên cùng gia đình làm lễ cho anh Nhất Minh. Cả thánh đường im lặng phăng phắt chỉ có tiếng nhạc dương cầm vang lên. Đức cha cùng con chiên cầu xin ơn Chúa Trời và thiên thần của Chúa dìu dắt Nhất Minh về nơi vĩnh hằng bên Chúa.

                  Sau khi chôn cất, nắng bên ngoài bỗng dịu lại, từng cụm mây trắng bay nhè nhẹ, ba người bạn gái ngồi nán lại bên nấm mộ. Tiểu Huơng ôm ghì Thơ Thơ và Tư Mi xúc động kể sơ qua cái chết của anh Minh cho hai bạn nghe. Tiểu Huơng cúi xuống nhổ những cỏ dại xung quanh đất mồ, cô cảm thấy hạnh phúc cho người anh xấu số của mình khi nhìn hai người bạn gái sụt sùi đi sát bên nhau vòng quanh nấm mồ của người anh tử sĩ - Chuẩn úy Nguyễn Nhất Minh - Người yêu trong đời của hai người con gái. Thật ra, cuộc tình trái ngang dang dở đâu bằng cái chết của anh. Tuổi xuân chưa trọn huởng, nay mồ xanh đã dấu kín ước mơ anh vào lòng đất.

                  Tự Mi ngồi khóc như mưa như gió vì chẳng hiểu tại sao mà Nhất Minh phải chết phanh thây như vậy. Cuộc đời anh hiền hòa, chỉ biết học hành vui chơi văn nghệ lành mạnh. Nhất Minh của nàng có hại đời ai đâu? Anh lãng mạn yêu nhiều, nhưng tình yêu đó cao thượng nhẹ nhàng như gió thoàng mây đưa. Nay anh ra đi bỏ quên cây đàn, bỏ rơi cây súng, bỏ người tình bơ vơ khóc thuơng anh lẻ loi. Tự Mi thắp mấy nén nhang trên mộ và xúc động nói.

                  - Chẳng lẽ đến lúc anh phải ra đi rồi hay sao? Tự Mi lúc ra đi giải phẫu, cứ tưởng mình đang đi vào con đường chết. Trên những dãy giường bệnh, em đã chứng kiến bao người ra đi. Chỉ vì sức mạnh tình yêu của anh, em phải giữ lời hứa trở về với anh. Nhất Minh ơi! Cuối cùng anh đã bỏ cuộc đời này ra đi, anh bỏ em bơ vơ với con tim còn lại. Nay em có một con tin mới lành mạnh, nhưng sao vẫn quặn đau vì mất anh vĩnh viễn. Anh Nhất Minh ơi! Anh có biết không?

                  Thơ Thơ nghe những lời trần tình của Tư Mi, cô không muốn nói thêm lời nào. Cô biết anh là chứng nhân của cuộc chiến ở quê nhà đã mất đi bao nhiêu cuộc đời trai trẻ. Du học ở nước Mỹ, nàng chứng kiến các phong trào chống chiến tranh, họ xa vời mơ ước con người có thể sống với nhau trong yêu thương hòa bình trên khắp hoàn cầu. Thơ Thơ nhớ Nhất Minh tâm sự về quê huơng mình còn nghèo khổ, cuộc chiến càng làm đổ nát bao niềm vui hạnh phúc. Thanh niên lớn lên đâu có ai biết chủ nghĩa chính trị là gì, mà chỉ biết mình phải bảo vệ cuộc đời ấm no cho mọi người. Cô đã chọn con đường du học tiến thân và tình yêu đối với Nhất Minh khác với Tự Mi. Giờ Thơ Thơ mới thấy sức mạnh tình yêu của Tư Mi đã chiếm phục trái tim anh. Đứng trước nấm mồ, cả thân người cô lạnh buốt nhưng con tim vẫn giữ một nhịp đập đều đặn nhớ đến Nhất Minh. Thơ Thơ tin rằng hồn anh thênh thang bên cô lúc này, ở bên nấm mộ tại một nghĩa trang yên lặng không bóng người. Thơ Thơ chỉ biết ôm bia đá, nhỏ lệ khóc thuơng người bạn thân thuơng nhất đầu đời. Có những tình yêu, chì có khi đánh mất đi mình mới thấy quý. Thơ Thơ lại gần choàng lấy đôi vai của Tự Mi, thu hết can đảm an ủi:

                  - Hai đứa mình đều yêu Nhất Minh. Giờ mất anh! Hai đứa càng buồn đau hơn. Nhưng ít ra anh Minh có những người bạn còn mãi yêu anh, nhớ anh, và thuơng xót cho anh.

                  Tự Mi ngồi ủ rũ, ôm mặt khóc nức nở bên nấm mồ đất còn tươi mát. Nỗi đau dường như đè nặng trên con tim lành mạnh của nàng. Tự Mi chẳng trách ai mà chỉ buồn tủi cho một tình yêu vô cùng ngắn ngủi. Tình yêu Nhất Minh đã cho nàng biết can đảm và hy vọng để thoát con đường chết. Chính cuộc chiến đau thuơng lại đưa nàng vào lại cơn bệnh gần kề với một tình yêu vừa chết.

                  (Nỗi Đau Còn Mãi - Trần Cường, March 10, 2005, Revised on 042707)

                  Comment


                  • #10
                    Mưa Lũ Trong Đời

                    Trần Cường

                    July 05, 2005

                    Mẹ tôi thường nhắc "Cái Đức thắng Cái Số". Mình sống cứ làm việc thiện, việc lành, giúp đỡ kẻ yếu đuối bất hạnh, hành xử đúng theo tạo hóa thiên nhiên, v.v... làm được như vậy là mình tự bồi đắp những hạt nhân tốt cho bàn thân và mai sau. Câu chuyện tưởng tượng dựng nên qua sự suy nghĩ nhận thức lời dạy của Mẹ tôi.


                    Bà Sáu ngồi trên cái chõng tre ngoài sân nhà, lặt rau mồng tơi để chuẩn bị nấu canh cho bữa cơm chiều. Mắt bà cứ đảo nhìn lên cây vú sữa và cây khế bên cạnh, kiếm đứa cháu nuôi là Tiến đang phá phách trên cây. Bà sống đơn độc không chồng con, cha mẹ mất đi để lại cho bà một mảnh vườn, căn nhà nhỏ, một cây vú sữa to lớn và một cây khế ngọt. Cả hai trồng sát nhau nhưng cây vú sữa lớn gấp hai cây khế. Tuổi đời bà cũng tròm trèm tuổi cây vú sữa và mùa trái khế đầu tiên vào lúc bà chớm tuổi dậy thì. Mấy mươi năm nay hai cây đều sai trái bốn mùa, đây là nguồn lợi tức sinh nhai của hai bà cháu. Bà tự an ủi cho đây là tài sản quý giá của mẹ để lại.

                    Tiến ngồi trên cây khế ngọt rồi leo sang cây vú sữa, hái những trái chín ăn ngon lành. Bất ngờ một vỏ rơi xuống trước mặt bà Sáu giật nẩy người nhìn lên thấy bóng người nhẩy trốn trong nhánh cây rậm rạp. Nhìn vỏ vú sữa và từng cành hoa khế tím rụng rải rác trên mặt đất. Bà Sáu giận dữ la lớn.

                    - Trời đất ơi! Thằng nhóc nghịch qúa chừng, chịu không nổi được nữa! Tiến ơi, xuống đi nghe, không thôi lại ngang bụng không ăn cơm được tối nay đó nghen.

                    Bà leo xuống giường, cầm chổi quét gọn các cùi vỏ vú sữa và hoa khế lênh láng trên mặt đất. Bà bực mình vì Tiến vừa ăn vừa bỏ phí phạm, dẫu bà không tiếc của thì bà cũng sợ mang tội với phước phần của trời cho. Bà quét dọn mỏi cả lưng, đảo mắt nhìn lên vẫn không nghe thấy nó đâu trên cây. Bà lẩm bẩm than vãn một mình.

                    - Lũ chim sẻ phá cây trái cũng chưa bằng thằng nhóc tì này. Nó khùng rồi chắc, ngày nào cũng ăn trái cây thay cơm. Người cao nhòng ốm trơ xương, mà sao khỏe chơi qúa.

                    Bà bỏ đi ra lu nước cạnh giếng rửa mặt. Vừa lom khom vắt cái khăn chưa kịp lau, bà thấy một bóng thấp thoáng chạy vụt nhanh vào trong nhà. Tiếng cánh cửa dộng vào tường nhà kêu cái rầm làm bà nhảy dựng người. Bà đi nhanh vào trong, thấy Tiến đang ngồi bệt mặt mày nhăn nhó ôm cái chân dính máu me.

                    - Bị sao vậy? Bà hoảng hốt la lên.

                    - Con chạy sơ ý đụng vào cánh cửa đó. Con không có sao hết. Bà tha lỗi cho con.

                    Nhìn vào cái chân bà xuýt xoa nói.

                    - Qủy thần đất ơi, chân tay như thế này mà nói không sao hết! Đi đứng cứ như chạy giặc cho lòi cái móng chân ra.

                    Móng chân cái của Tiến đã bong ra gần hết. Một vết cắt dài từ mắc cá lên tới ống chân lòi thịt trắng bóc. Bà cho Tiến nằm dài dưới sàn gạch đỏ, kéo cái ghế đòn để gát cái chân, sẵn cái khăn trên tay bà vội vàng quấn vào chân để cầm máu. Sau đó bà dặn dò thằng cháu nằm yên nghỉ ngơi đợi bà về. Bà cầm cái nón lên tay vội chạy qua hai nhà hàng xóm để cầu cứu nhưng không gặp được ai. Bà luýnh quýnh chạy hớt hải băng ra ngoài đầu ngõ đón chiếc xe thồ đi mời anh y tá Bảnh về băng bó vết thương. Chẳng may anh y tá đi lên tỉnh chưa về. Cuối cùng bà đành chạy ra chợ mua vài trái cà pháo và túi hột mồng cỏ, dùng lối chữa trị dân truyền để đắp chân cho cháu. Ngồi trên chiếc xe thồ, bà thở hổn hển vì mệt nhưng bà sung sướng vì còn được chăm lo đứa cháu nuôi vào tuổi già xế bóng.

                    Khi xe về đến, cửa nhà trước sau để trống trơn. Bà kiếm không thấy thằng Tiến đâu hết. Bà chạy ra sau chỉ thấy chiếc khăn đẫm máu ở bên cạnh cái thau nước còn mùi tanh. Bà Sáu chống nạnh kêu lên inh ỏi, mắt đảo quanh tìm kiếm nó nhưng cũng không thấy. Chị Bông đứng sát hàng dậu cạnh sân nhà lên tiếng.

                    - Bà Sáu ơi! Mấy tụi nhỏ đi tắm sông rồi.

                    - Thằng nhóc này nghịch trời thần đất lở thiệt đó mà. Mới bị cắt đứt cổ chân bứt móng chân cái mà dám đi tắm sông.

                    - Bà có cần con chạy ra bờ sông kêu tụi nó về. Thằng Minh nhà con cũng đi tắm sông với nó đó. Chị Bông trả lời với bà.

                    - Í thôi mặc kệ nó! Thôi nó đi chơi với thằng Minh cũng được. Thằng Tiến nhà này nó quậy qúa, nó không sợ cái gì trên đời. Bà sợ là không nuôi nó nổi, ngày nào bà cũng lo muốn đứng tim…

                    Than vãn một hồi chẳng thấy chị Bông trả lời, bà lẩm bẩm đi vào nhà một mình.

                    Tiến vốn kém thông minh chẳng học hành, nhưng làm việc tháo vát nhanh nhẹn và tính tình mộc mạc. Giữa bà và đứa cháu nuôi có nhiều khác biệt về tuổi tác, cá tính và suy nghĩ. Đôi lúc bà chỉ biết lẩm bẩm độc thoại một mình cho vơi cơn buồn giận và nỗi sầu cô độc. Ròng rã bao nhiêu năm trôi qua, bà dường như đã quen cái tính liều mạng và nghịch ngầm của thằng cháu. Bà vẫn thương yêu Tiến như là ruột thịt, chẳng bao giờ lớn tiếng la rầy, lúc buồn bực chỉ mắng yêu nó là ‘thằng nhóc’. Tiến không bao giờ dám ngỗ nghịch hỗn láo, luôn lễ phép và kính nể bà. Lúc bị rầy la thì nó ngồi im lặng nghe, miệng dạ thưa hứa hẹn lia lịa, nhưng năm mười phút sau quên ngay. Nó thích đó rồi chán đó ngay, thích hoạt động táo bạo, thích tham gia trò chơi cực kỳ mạo hiểm, không bao giờ ngồi yên được hơn một tiếng đồng hồ.

                    Bà lững thững đi ra ngoài nằm trên cái võng. Nhìn những trái vú sữa xanh tím nặng trĩu cành, giống như vú mẹ căng tròn đang thèm nhớ con. Bà nghĩ miên man về cái thằng cháu họ nuôi, về những thói quen hằng ngày của bà như là ra vào lo lắng, đi tìm kiếm và ngồi chờ hằng giờ. Đôi lúc bà cũng mệt mỏi muốn bỏ cuộc, muốn gửi trả đứa cháu về với gia đình nhưng bà không thể làm được. Nắng chiều bỗng diụ lại, gió thổi mát lồng lộng bên ngoài, bà kéo khắn choàng đầu, nhắm mắt suy tư.

                    Ở trên chiếc cầu gỗ nhỏ bắt qua một dòng sông hẹp, mấy đứa nhỏ xếp hàng nhảy lủm bủm xuống nước làm khuấy động bùn ở đáy lòng sông trở nên đục ngàu. Tắm và chơi nghịch ở con sông này đã nhiều, tụi nhỏ cũng không còn để ý đến nước trong hay bùn sình. Cả đám thách thức thi nhau nhảy phóng xuống sông, cãi nhau chí chóe giành giựt ngôi thứ, đôi lúc đùa giỡn với nhau khá thô bạo. Chúng nó chạy rần rật từ bờ sông lên tới thành cầu, cười nhộn nhịp say sưa quên bẵng sinh hoạt của mọi người chung quanh; còn Tiến mải chơi chẳng lên tiếng than chân đau. Quần áo đứa nào cũng đổi thành màu đất, áo ướt sũng dính nhăn nhúm vào người. Có đứa quần tuột xệ dưới rún, có đứa cởi trần phơi áo treo trên cành cây. Mặt mày đưá nào cũng xám xì miệng môi tím ngắt, thế mà lũ nhỏ không thấy lạnh vẫn vui chơi thỏa thích.

                    Từ đằng xa bóng nắng biến mất dần sau làn mây đen kéo tới xám ngắt. Gió bắt đầu thổi mạnh đong đưa cây lá sột xoạt rơi lả tả trên sông. Mùi hơi đất càng xông nồng nực. Dưới chân cầu một người đàn bà ngồi giặt quần áo lật đật thu xếp đi về. Một người đàn bà bên kia bờ sông đang rướn người cuốn mùng chiếu lại và thu nhặt quần áo đang treo phơi. Mặt cầu bị ướt trơn trợt, vài người dắt chiếc xe đạp qua cầu chậm chạp, vài người hàng gánh uể oải nặng bước về nhà. Khung cảnh chung quanh càng lúc càng vắng vẻ. Gió lốc từng cơn mạnh mẽ làm lũ chim kêu chí chóe bay ra từng đàn từ các lùm cây rậm rạp. Vài con chó cong đuôi, đưa mõm ngửi hàng giậu rồi gác cẳng phóng uế thoải mái truớc khi chạy đi tránh mưa. Chỉ có vài phút sau đó, mưa đổ ào xuống mặt sông nổi thành bong bóng thật lớn, đến một lúc không còn nghe tiếng mưa rơi mà chỉ nghe dòng nước lũ trên sông chảy siết.

                    Mưa đổ xuống bất ngờ trong lúc lũ nhỏ đang vui đùa, chúng càng khoái chí được thưởng thức tắm mưa bên dòng sông. Có đứa ngửa mặt há miệng để hứng nước mưa, có đưá dậm chân nhảy theo nhịp mưa, có đứa bơi ngược dòng sông đang chảy thật siết, có đứa đu lên cầu làm tặc-răn đánh đu rơi xuống nước. Chúng quên mất những hiểm nguy bất ngờ có thể xảy ra và quên đi gia đình đang lo lắng mong đợi.

                    Khi mưa càng lớn không ai đi qua cầu, không bị ai rầy la, tụi nhỏ càng nghịch ngợm táo bạo. Năm đứa trèo lên đứng xếp hàng dài trên chiếc cầu gỗ trơn trượt – Họat, Minh, Tiến, Trự và Học. Cả năm đứng ôm nhau nhún nhịp trên cầu, khoái chí nghe tiếng kêu cút kít của cái chân cầu bằng gỗ, rồi ôm nhau cùng nhảy xuống dòng nước đang chảy siết. Chúng chơi lập đi lập lại. Bỗng đất vỡ làm một chân cầu sụp đổ. Thằng Hoạt và Minh mất thăng bằng rơi tỏm xuống sông, ba đứa còn lại chụp được vào thành cầu. Cả đám kêu cầu cứu với nhau nhưng tiếng mưa gió quá mạnh lấn át tiếng kêu réo. Chúng nó chỉ thấy Hoạt và Minh ngụp lặn vài lần rồi không còn thấy bóng dáng trong mưa. Tiến chạy nhanh dọc theo dòng sông, quan sát thật kỹ trên dòng nuớc. Những cành cây nhỏ quất vào vết thương trên chân, nó thốn đau nhảy cà nhắc nhấp nhỏm rồi gượng chạy tiếp để cứu bạn. Mưa càng lúc càng nặng hạt làm bong bóng nổi đầy mặt sông khó mà nhận ra dấu hiệu của mấy thằng bạn, Tiến đưa tay vuốt mặt liên tục, mắt cố quan sát và chân tiếp tục chạy. Trong lúc đó, Trự và Học chạy theo bên kia bờ sông quan sát cùng với Tiến, chụp đại cái lưới đánh cá chạy xa hơn Tiến xuống cuối dòng ngồi trên một cái cầu ván nhỏ thả lưới ngồi chờ.

                    Bỗng Tiến thấy một cái tay quơ lên mặt nước, hắn cởi cái áo cầm trong tay rồi phóng xuống sông. Trong lúc nó đưa mắt tìm kiếm, chẳng biết có đứa nào chụp được cái áo, nhưng dòng nước lũ chảy siết giựt ngược đẩy nó xoay một vòng đập người vào bờ. Nó chụp lấy một cái rễ cây cố đứng yên trong lúc đó sóng nước đập liên tục vào mặt. Tiến lấy bình tĩnh, ôm chặt những rễ cây ven sông, giựt ngược cái áo kéo bạn vào sát người. Lúc bấy giờ nó nhận ra thằng Minh mặt mày tím ngắt, hai tay yếu ớt cuốn tròn vào tay áo cố ôm lấy bạn và bám vào thân cây khô ở ven sông để nghỉ. Sức đẩy của dòng nước và sức nặng của hai đứa làm cành cây bị gãy, cả hai bị đẩy đi theo dòng một quãng xa. Tiến nghe tiếng kêu của thằng Học, nó cố kiềm giữ lấy bạn đồng thời định hướng của tiếng la hét; may mắn nắm được cái lưới đánh cá của thằng Học đang quấn vào thân cây lớn. Cả đám phụ nhau hì hục kéo đưa thằng Minh lên cái cầu ván nhỏ.

                    Thằng Minh nằm bất động chưa hoàn hồn. Tiến cùng lũ bạn kéo Minh lên đè ra xốc nước ọc ói ra mật xanh mật vàng. Mắt hắn mở lớn, vùng chạy hớt hãi thất kinh trên bờ. Ba đứa nằm dài ra cái sàn ôm nhau cười sung sướng. Minh ngồi bệt xuống đất ghì đôi vai run bắn lên vì lạnh, đảo mắt đỏ khè không thần sắc liếc xung quanh tìm thằng Họat. Nó sợ ma da kéo thằng bạn đi mất.

                    Trời đã sẫm tối, mưa ngớt dần, dòng sông nước lũ dâng cao chạy mạnh. Tiếng ễnh ương bắt đầu kêu rền dọc bờ sông trơn trượt. Tiến bám vào ven sông chạy ngược để đi lên tìm thằng Hoạt. Cả ba đứa vội vàng chạy theo phụ thằng Tiến. Chúng ôm cái lưới đánh cá rối bời chạy ngược về hướng chiếc cầu gẫy. Thằng Minh cứ bị ám ảnh bị xém chết trên sông, cứ té lăn cù trên đường mòn ướt sũng ven sông. Lúc cả đám đi tới thấy Tiến và Hoạt nằm dài ôm nhau cười sung sướng trên sàn cầu đã mấp máy nước. Năm đứa hoàn hồn, mới biết ra thằng Hoạt lặn thật sâu bơi ngược về chân cầu, rồi bám chân cầu leo lên sàn. Khi mực nước dâng cao, Hoạt vội leo lên cây để trốn thoát và quan sát tìm kiếm ra Tiến. Cặp đầu gối Minh còn run cầm cập đưa mắt nhìn láo liên. Nó thấy Tiến khó khăn cử động bàn chân, mới sực nhớ thằng bạn bị thương lúc chiều. Mấy đứa bu tới nhìn suýt xoa cái chân đau đã bị mưng độc của Tiến. Chúng bắt tay làm kiệu khệ nệ khiêng thằng bạn về như chiêu đãi anh hùng đã không sợ hiểm nguy cứu bạn. Năm đứa đi dưới mưa hát la rầm rộ; chẳng trách cả xóm đặt chúng là ‘Ngũ Qủy’. Cả lũ đều đồng ý sáng sớm ngày mai trở lại đây sửa lại cái chân cầu. Chúng tiếp tục cười đùa hồn nhiên trong mưa chiều xám đen hoàng hôn.

                    Trời tối xầm. Gió thổi lành lạnh tạo nên không gian ghê rợn. Gần về đến nhà, Tiến cảm thấy một điều gì không ổn, từ hàng dậu nó nhìn thấy chòm cây vú sữa bị thưa thớt. Nó buông tay nhảy xuống kiệu không cần từ giã mấy thằng bạn, chạy cà thọt vào nhà. Nó nhìn thấy cây khế bị những nhánh cây vú sữa đè nặng làm gẫy nát thành nhiều khúc. Những nhành cây gãy vụn chồng chất và những chiếc lá già rụng trải đầy cả sân. Nó nhìn không gian điêu tàn tĩnh mịch mờ tỏ trong ánh đèn đong đưa lắc lư trong gió lạnh. Nó hốt hoảng la thất thanh tìm kiếm bà Sáu.

                    Khi đứng trước cửa nhà, nó thấy bà Sáu ngồi chống cằm buồn bã bên cây đèn dầu. Chiếc khăn trên tay chấm nước mắt liên tục vì cảm động tiếng kêu la của đứa cháu nuôi. Nó lấm lét bước vào nhà, tiến gần ôm lấy vai bà mặt mày mếu máo nói.

                    - Bà Sáu ơi, bà đừng bỏ con! Con xin lỗi bà không có ở nhà để giữ cây khế cho bà.

                    - Trời mưa gió lớn làm gẫy cây khế, chớ con có tài sức gì mà chống với thiên tai được. Mưa lũ lớn như vầy mà con chơi bây giờ mới về, làm bà lo muốn chết.

                    Bà ngưng lại, đưa ánh mắt trách móc thằng cháu rồi cảm động nói tiếp.

                    - Thôi, đi vào tắm rửa ăn cơm đi trước. Bà thấy bực bội khó chịu trong người quá, bà sẽ ăn sau. Bà có kho cá với khế ngọt cho con đó. Nhớ gắp cá tém cho gọn gàng nghe.

                    Nhìn bà Sáu đứng lên thắp nhang khấn vái ở bàn thờ, Tiến bước cà thọt đi vào trong nhà chẳng dám nói thêm lời nào. Nó bắt đầu cảm thấy người nóng lạnh, bàn chân thốn nhức kinh khủng. Thế mà nó vẫn ăn cơm ngon lành với món khoái khẩu cá kho khế và canh mồng tơi tôm khô.

                    Sau khi ăn uống dọn dẹp, bà kêu Tiến lên để bà chăm sóc. Bà rửa vết thương bằng nước muối ấm thật sạch sẽ. Bà lấy trái cà pháo đút vào trong ngón chân cái của nó, lấy mồng cỏ đã ngâm sẵn đắp vào vết cắt mưng mủ ở cổ chân, cuối cùng sợi vải mỏng băng bó vết thương đàng hoàng. Nó cúi đầu ngồi yên nhìn bà Sáu chăm sóc vết thương, miệng mấp máy muốn nói điều gì tri ân nhưng không thành lời.

                    - Con xin lỗi bà. Con đội ơn bà đã lo cho con...

                    Bà Sáu chẳng phản ứng gì vì đã nghe nhiều lần câu nói này. Thực ra bà hài lòng sung sướng những lời nói chân phương mộc mạc. Tình cảm của nó rất là vô tư hồn nhiên.

                    Tiếng côn trùng vang vọng trong đêm tối hoang vắng. Cơn gió thoảng sau cơn mưa không lạnh nhưng cũng làm cho Tiến rùng mình khi nhìn ánh đèn măng xông hắt sáng lấp lánh ngoài vườn hiện rõ cái tan nát của cấy khế ngọt. Một chặp sau Tiến lăn đùng trên tấm phản bên cạnh nhà bếp ngủ say mê mệt quên đóng cánh cửa phòng. Bà Sáu kéo chiếc ghế đẩu ngồi sát cửa sổ nhìn đứa cháu nuôi đang ngủ, nhìn cây khế già không còn nữa lòng bà buồn xôn xao.

                    Sáng sớm ngày hôm sau, bà Sáu vừa thức dậy đã nghe tiếng chặt cây lụp bụp bên hông nhà. Bà ra ngoài quan sát Tiến dậy sớm làm công việc hằng ngày. Bà thấy đứa cháu đang cởi trần vạm vỡ, quần xắn tới đầu gối giơ cái chân đen đuổi đi cà thọt. Tay cầm cây rựa thoanh thoắt tước gọn những nhánh cây khế bị gãy ra từng khúc chất đống làm củi, còn những nhánh nhỏ lá cây bỏ sang một bên. Chẳng bao lâu nó đã dọn cả đống thân cây gãy bên hông nhà. Bà bước ra sân sau rửa mặt, thấy các lu nước đã đầy tràn, quần áo giặt giũ treo phơi gọn gàng. Vườn tượt rau trái xanh tươi mầu đất mới bới rẫy, những giọt nước còn long lanh trên mặt lá. Mặt đất vẫn còn ướt nhèm nhẹp, mấy con heo cũng được tắm sửa sạch sẽ. Bắp chuối xắt đầy đủ để gọn gàng trong chuồng cho heo ăn. Bà Sáu tủm tỉm sung sướng đi vào nhà bếp. Bà thấy một rổ khoai lang còn nóng hổi và bình trà vừa pha.

                    Đây là những công việc mỗi sáng sớm của Tiến, chẳng bao giờ để bà nhắc nhở. Thường làm xong công việc nhà, nó lại đi chơi với bạn bè một ngày hai ba cữ. Chúng đi tắm sông lội suối, cào mương bắt tôm, đào giun câu cá, ngâm hồ bắt cá trê. Chúng tham gia hội hè đình đám, ghiền xem cải lương hát bộ ban tối. Đến mùa trái cây chúng đi khắp chòm xóm bẻ mía trộm, tỉa tầm ruộc, chỉa xoài ổi, khèo me hái keo, hay là quậy trên cây vú sữa ở nhà. Bà hiểu những sinh họat của bọn nhỏ lành mạnh gần gũi với thiên nhiên, nhưng mỗi khi nó đi chơi bà lại lo lắng chờ đợi cháu an toàn trở về nhà. Bà chỉ cầu mong thằng cháu sống yên vui bên cuộc đời nghèo nàn bất hạnh của bà.

                    Lúc bưng khay trà và rổ khoai lang luộc lên nhà, bà thoáng thấy Tiến cầm cái rựa và cái cần câu bước ra ngoài hàng dậu với mấy đứa bạn trong xóm, cả nhóm đều vác cuốc xẻng dao rựa trên tay, nhốn nháo bàn tán về các cây kế bị gãy. Một chốc lác, bà chẳng thấy bóng dáng mấy tụi nhỏ ở đâu. Mưa lũ hôm qua làm ngập lụt các con đường đê bùn lầy trơn trợt, bà lại sợ cho cái chân đau của Tiến không may trượt té trên đường. Bà cầm tách trà nóng thưởng thức, ngồi gật gù lẩm bẩm một mình:

                    - Ý trời! Trời sinh trời dưỡng.

                    Nhiều đêm bà cứ trăn trở người không ngủ được, bà nghĩ miên man về cuộc đời của bà và đứa cháu nuôi là Tiến. Bà càng thương xót cho cuộc đời bất hạnh của Tiến phải xa cách mái gia đình từ lúc nhỏ.

                    Tướng vóc của Tiến không tốt như là đầu nhỏ như vỏ dừa lại sói thượng, lỗ tai nhỏ cụp lại cộng thêm cái trán thấp tẹt thiếu thông minh, tay dài như vượn và bàn chân gầy to, miệng thì hô cười hở lợi nhe răng. Có người cho là dị tướng, có thầy khẳng định rằng yểu tướng. Nhất là Tiến khắc mạng tuổi với người cha. Lúc nhỏ nó rất khó nuôi bị đau ốm èo uột, nhiều lần tưởng chết vì kinh phong, té giếng, té giường, té sông. Còn ông cha là trung sĩ truyền tin cũng suýt chết vì đạn và mìn. Mẹ Tiến tin vào bạn bè chòm xóm mách vẻ đủ thứ, theo đuổi mọi cách để hủy diệt những tai họa bằng cách mời thầy lễ cúng kiến, ếm bùa, đổi nhà, xoay hướng nhà cho đúng phong thủy. Có lần định cho con vào chùa làm chú tiểu để đổi cải số mạng, ngay cả tính chuyện đổi tên gọi là ‘Tủn’.

                    Tiến là đứa con trai út trong một gia đình đông con bốn trai và năm gái. Theo lời truyền khẩu, đây là tứ quý và ngũ long, gia đình sẽ được sung sướng giàu có. Nhưng hoàn toàn trái ngược, đời sống gia đình luôn vất vả chật vật chỉ vừa đủ miệng ăn. Buôn bán luôn bị thất bại dầu chỉ hàng quán vớ vẩn. Mãi cho đến ngày mang nó gửi cho bà thím Sáu nuôi nấng, cả toàn gia được yên ổn làm ăn phát đạt và bản mệnh của Tiến vững vàng. Mọi người càng mạnh mẽ tin vào bản mệnh của hai cha con được cải đổi thoát kiếp.

                    Ba Tiến được giải ngũ vĩnh viễn, dọn gia đình về thành phố khác cùng mẹ làm ăn buôn bán tạp hoá được an khang. Cuộc sống bề thế hơn và con cái khỏe mạnh khôn lớn học hành giỏi giang. Nhưng buôn bán làm ăn càng to lớn càng bận rộn ít khi lui tới thăm viếng con. Các anh em quen đời sống ở thành thị phồn hoa văn minh, lâu lâu ghé chơi cũng không thể nào kết nối được nhịp cầu quê mùa hồn nhiên. Còn Tiến về thăm gia đình mỗi năm, vẫn cảm thấy lạc lõng gò bó, cuộc sống ồ ạt bon chen. Nó chỉ mong sớm trở về thôn xóm yên ổn sống bên bà Sáu.

                    Tiến chẳng phải vì ham sống sợ chết mà không dám gần gũi với gia đình. Còn bà Sáu cũng chẳng vì sợ cô đơn mà đem lòng íck kỷ làm mất đi nguồn gốc của Tiến. Cuộc đời dẫu nghèo khổ bao nhiêu năm, hắn đã khôn lớn khỏe mạnh sống trong tình thương của bà. Tiến có một đời sống hạnh phúc, luôn kính trọng thuơng yêu bà, vẫn xưng hô là bà cháu ngọt ngào. Tiến dường như đã gần gũi thân thương mấy đứa bạn quê mùa ở xóm làng nhỏ nhắn. Nó cũng từng bị té cầu, rơi từ nóc nhà, lật ghe xém chết đuối, té từ cây vú sữa. Nó vẫn vui vẻ sống khỏe mạnh cực nhọc lao động mỗi ngày. Cá tính liều mạng nghịch ngầm nhưng nó luôn giúp đỡ kẻ yếu hèn và thương yêu chia xẻ với mọi người. Bà con hàng xóm và bạn bè đều yêu mến Tiến.

                    Bà Sáu không có công sinh nhưng có công dưỡng. Số phận kiếp nghèo nhưng bà giàu tình thương người. Tâm hồn bà cũng có lúc chưa tịnh, lòng bà còn có lúc buồn lúc vui bâng quơ, hay la mắng trống không với thằng cháu nuôi. Giờ nhìn đứa cháu nuôi khôn lớn được gần gũi với thiên nhiên, sống vô tư hồn nhiên. Nó không buồn tủi muộn phiền, không biết đến giàu nghèo, không biết đến tham vọng, không sân si giận dữ. Trong tâm hồn của Tiến mọi thứ vật chất chung quanh đều là không, bà Sáu cho đây là hạnh phúc cho cuộc đời của thằng bé.

                    Số kiếp của Tiến bị đẩy đưa đến một hoàn cảnh trái ngang ngoài ý muốn, giờ định mệnh của nó cũng do số Trời - Trời sinh, Trời dưỡng. Nhưng thực ra chính tấm lòng yêu thương dưỡng dục đầy đạo đức chân tình của bà Sáu, đã cải hóa phần phước cuộc đời Tiến được nhẹ nhàng thảnh thơi.

                    (Mưa Lũ Trong Đời - Trần Cường, July 5, 2005) Revised on 041707


                    Comment


                    • #11
                      Xuôi Ngược Mây Nguồn

                      Trần Cường

                      February 6, 2006


                      Lời mở đầu: Lâu lắm chưa dám đăng một bài viết nào khác, hôm nay đầu năm chia xẻ bạn đọc một bài viết đã khá lâu. Bài văn ngắn "Xuôi Ngược Mây Nguồn" bàn về quan niệm cho rằng "Mỗi con người sinh ra đều có một định mệnh an bài". Bài viết bắt đầu vào tháng 2 năm 2006 nhưng mãi đến tháng 4 năm 2007 mới hoàn tất.

                      Lúc nhỏ, mấy đứa bạn thường gọi Túc là “cu to”. Chẳng vì lớn con hay đầu to, mà vì cơ thể của hắn phát triển không bình thường. Phần túi bọng hòn dái của Túc lớn bằng nắm tay người lớn. Tụi nhỏ nghe tin đồn thất thiệt nhưng vẫn không tin mấy vì chưa thấy tận mắt. Nhiều lần cả đám xếp hàng nghịch ngợm đua nhau xả xui, “con rồng phun nước” của Túc bắn xa nhất trong đám. Bạn bè hiếu kỳ tò mò tìm cách để kiểm chứng cái bọng hòn của hắn to cỡ nào nhưng đều thất bại. Tội nghiệp thằng Túc luôn cảnh giác, dấu kín mít không để một kẽ hỡ vì sợ bị phỉnh gạt. Lần nào bị trêu ghẹo hắn cũng mắc cỡ đỏ tía tai giận dữ. Lũ nhỏ không còn ngờ vực, đồn đãi danh hiệu Túc “cu to” lan rộng khắp xóm và đeo đuổi trọn cuộc đời của hắn.

                      Khi Túc vào trung học đệ nhất cấp, thân thể hắn vạm vỡ tráng kiện, thể lực dồi dào như thanh niên mười tám. Cơ bắp chân tay rắn chắc, râu con lún phún ở cằm và mép miệng, lông măng ở bụng và ngực đã mọc lưa thưa. Tóc đen xoắn vòng ngắn ngủn trên đầu, mai tóc mọc dài xuống vành má như râu quai nón. Bàn chân của nó phải mang dép số 42 của người lớn, bàn tay bự có thể ôm cả cái bưởi trong lòng tay, nhất là đầu ngón tay cái to gấp hai hơn khúc ngón tay. Nếu dựa theo lời truyền của các cụ cũng đủ nghiệm chứng tầm cỡ của Túc, chứ trách gì lũ trẻ con đã gán ép biệt danh cho hắn.

                      Ba Túc là trưởng tộc của một ngành họ lớn, vì sợ hiếm muộn con trai mang tội với gia tông nên cứ ráng sinh đẻ mãi. Chỉ trên bốn mươi năm tuổi, ông bà đẻ xoành xoạch mười bốn đứa con năm một. Má hắn vừa đẻ xong đứa này lại thấy bà mang bầu đứa khác. Đến lúc bà kiệt sức không giữ được cái thai của đứa mười lăm, bà đành cắt bỏ buồng trứng. Bước vào nhà Túc chỉ có chóng mặt vì bọn nhóc con nheo nhéo, không thể nào nhớ tên nhớ mặt mỗi đứa. Anh chị em hắn đều xấp xỉ ngang cỡ, chỉ có anh chàng đầu đàn Túc trổi bật cao lớn nhất. Một lố chị em gái đứa nào cũng xinh đẹp như nhau, hai anh em trai khác biệt một trời một vực. Thằng em út èo uột đau ốm và bị phong ghẻ đầy người, còn hắn tráng kiện khỏe mạnh như trâu. Ba má Túc vui mừng vì có thằng con trai đầu bảnh trai, đôi lúc tự an ủi nói đùa với nhau.

                      - Người ta tiền rừng bạc biển giàu có, còn mình vừa giàu con vừa được thằng con đức tôn giống tốt nối dõi tông đường.

                      Giống tốt đâu không thấy, chỉ thấy ba mẹ nó đông con, vừa buôn bán vừa trông coi con cái, làm cho nó phát sợ không muốn tìm hiểu thêm về cái khái niệm trừu tượng “nối dõi tông đường”. Càng lớn khôn, Túc càng mặc cảm tự ti nặng nề - nhất là nhãn hiệu “cu to”, hai là bị bỏ bê, ba là không có em trai ngang cỡ để tâm sự. Ba mẹ nó bận rộn buôn bán, sinh đẻ qúa nhiều, chẳng bao giờ để ý chữa trị cho thằng con. Càng đông con, được ông bà phù hộ làm ăn phát đạt, nhà cửa xây lên năm tầng lầu cao ngất. Ba Túc dành cả gian lầu năm làm nhà thờ họ rộng lớn khang trang. Ông sắp xếp cho thằng con đức tôn một mình ở lầu bốn để ấm cúng hưởng ân đức của ông bà. Qủa không sai! Túc càng ngày càng sáng dạ, thông minh và đắt đào. Hằng ngày Túc thường đi chơi với lũ bạn trong dãy phố, còn không hắn thà rúc trong phòng học bài chăm chỉ còn hơn chăm coi đám nhóc tì nheo nhéo trong nhà. Nhất là thằng em út ở sát phòng, tuổi tác quá khác biệt nên xích mích kình cãi nhau luôn.

                      Nhà cửa to lớn và rộng dài, cầu thang cao và dựng đứng, leo lên xuống hằng ngày cũng mỏi cả chân. Hàng hóa tồn trữ chất chật trên đường đi, phòng ngủ, phòng học, nhà bếp, cầu thang. Sàn nhà không còn chỗ đi và chơi. Ba người ở làm việc luôn tay vẫn chưa hết chuyện. Còn bao nhiêu chuyện khuân vác nặng nề đều cần vào bàn tay vạm vỡ của Túc. Mỗi lần giỗ kỵ hay Tết, Túc phải phụ dọn dẹp nhà cửa cả tháng trời, còn mẹ hắn phải chuẩn bị cả tuần lễ cho cả trăm người. Ba Túc cúng kiến lễ nghi rất chu đáo trang nghiêm, cả làng họ ai cũng nể nang qúy trọng. Giỗ Tết hàng năm bà con lui tới đông đủ như ngày hội, ra vào tấp nập không đủ chỗ đứng ngồi. Mọi người đều chăm chú đến cái tướng càng dềnh dàng như khổng lồ của hắn. Hai cánh tay dài thòng lòng xuống đầu gối, bàn tay to như vượn. Giọng nói to tát thật trầm như trống đình làng. Đám anh em bà con đều thương mến vì tính tình hiền lành thật thà, nhất là hắn hát rất hay. Chú bác cô cậu đem hắn ra làm gương sáng điển hình về học hành chăm chỉ giỏi giang. Mọi người dòn tan chúc tụng ba má Túc.

                      - Thằng con trai của ông bà bảnh thật! Cái tướng qúy thế nào về sau cũng làm tướng tá.

                      Cái tướng “qúy” thì phải là ngũ đoản. Toàn thân Túc cái gì cũng dài, không thấy cái gì đoản khúc. Hắn chỉ có cái mã bảnh trai với đôi mắt đen sâu, cao một thước bảy, miệng rộng thêm hàm răng đều đặn rất đẹp. Túc càng quen nhiều em, đám con trai bám theo càng đông, rốt cuộc hắn cũng chả làm ăn được bao nhiêu.

                      Đến lúc lên trung học đệ nhị cấp, Túc nhận thấy mình không thoải mái trong chiếc quần tây xếp hai ba li, đáy quần rộng thụng thệnh kịch cợm kiểu cổ lổ xĩ của mấy ông già, nên làm liều chơi đại cái quần theo thời trang không li ống túm sát người. Mỗi bước đi sải dài bằng hai người bình thường, cái quần ôm sát mông đùi, nhồi bó bọng hòn qua lại làm cho hắn đau đớn khó chịu. Một thời gian sau Túc cũng quen dần, bạn bè nhìn quen mắt, không ai còn chọc ghẹo hắn như xưa. Túc có chí học hành, hắn thi băng tú tài bán phần. Vào Sài gòn học nhảy lớp thi đậu tối ưu tú tài toàn phần. Có lần bạn bè thách thức, hắn học ngấu nghiến cuốn hình học giải tích chỉ trong một tuần lễ. Ngược lại hắn bị ảnh hưởng cảnh bừa bộn trong nhà, đâm ra lè phè hơi tốc kê. Hắn thường bị Giám Thị phạt vì tội bỏ áo sơ mi ngoài quần, không gài nút áo, mang dép đi học, tóc tai để dài qua mang tai.

                      Dưới con mắt yêu đời của lứa tuổi thanh niên, Túc bắt đầu biết chau chuốt thân hình vạm vỡ tráng kiện. Hắn bắt đầu thích bơi lội, tập tạ, đánh bóng chuyền, nhất là không bao giờ hút thuốc lá. Những tiểu thơ đài các đều chê hắn cục mịch như đười ươi, to con lớn xác mà nhát như thỏ đế. Còn thục nữ mảnh mai nào can đảm làm quen tán tỉnh, cạy được miệng hắn ra thì mới biết tài ăn nói lịch thiệp duyên dáng, đến lúc đó chẳng em nào muốn nhả hắn ra. Những năm cuối trung học, hắn đã có tới hàng tá con gái say mê, tất cả đều xinh đẹp có tiếng ở thành phố. Túc chủ trương giao thiệp bạn bè bình thường, không lạnh nhạt bỏ rơi ai và cũng chẳng tội gì để ý tới em nào cả. Cũng lạ bọn con gái chẳng có thắc mắc, còn khen ngợi việc đối xử rất công bình tế nhị của hắn. Chỉ có đám bạn trai rập bàn bạc tiếc rẻ những cơ may, không ngừng cằn nhằn mắng mỏ thằng “dân ngu cu to”. Rốt cuộc, cả bọn chẳng kiếm được một mống nào coi cho được mắt, Túc càng làm tàng ra vẻ đếch cần.

                      - Yêu sớm chỉ tổ phải viết thơ tình cho chúng đọc, bị hành hạ thân xác chứ lợi lộc gì!

                      - Lên mặt làm tàng dữ nghe! Ỷ mang danh của giống tốt. Mày lắm mối tối nằm không, để cho ngày dzui qua mau rồi đời phơi héo hon đó nghen.

                      - Của giống tốt thấy mà sợ! Sinh đẻ như ông già tao thì thà tuyệt giống sướng hơn.

                      - Mầy nói hỗn láo tầm bậy! Ông bả nghe được đánh mày vỡ đầu. Trời sinh voi sinh cỏ hơi sức nào mày lo. Gia đình ba má mày đông con lại giàu của mà mày lo chi bá vơ.

                      Đám thanh thiếu niên bắt đầu bày dặt lý sự chút ít về đời, tụ tập chỉ bàn thảo chí chóe, cãi nhau õm tỏi bất cứ đề tài gì về gia đình, xã hội, chính trị, học đường. Đề tài hạnh phúc tình dục là sôi động và thích thú nhất; thằng nào cũng đòi làm sư giải thích ba hoa chỉ bảo cho nhau. Càng đấu láo bá láp, đám trẻ càng thèm thuồng tò mò về những cái huyền bí của con gái, càng thần tượng hóa cái thiên đường tình ái. Chỉ mỗi thằng Túc dửng dưng không thèm để ý tới. Cuối cuộc thảo luận là tuồng răn đe mắng chửi, rồi theo đuôi hửi bụi hương tình rơi rớt của hắn. Thật ra chính bọn con trai thật ngu xuẩn vì tin rằng: “Muốn chuyện tình duyên suông xẻ phải nhờ thằng Túc cho mát tay”.

                      Lớn lên ở thị xã nhỏ, phần lớn đám bạn trẻ đều lập gia đình sớm. Nhiều thằng phải bôn ba chạy chọt kiếm ăn từng bữa cho gia đình, chỉ còn vài mống loe ngoe được bước vào ngưỡng cửa đại học. Những đứa may mắn còn được đi học, bắt đầu được sống xa gia đình, như chim xổ lồng bay nhảy nên chúng nó quậy hết biết. Cả đám giống như những con ngựa hoang rong chơi tối ngày, đâu dzui có mặt chỗ buồn trốn mất tiêu. Chuyện học hành được hay không chẳng tính, đủ điểm trung bình là thỏa mãn rồi, còn giỏi dốt đậu rớt đổi thừa cho mấy ông thầy chấm điểm gắt qúa. Túc vẫn đào hoa phong nhã, danh sách cảm tình viên càng lúc càng dài, nhưng chẳng có cô nào trở thành người yêu muôn thuở. Tên tuổi của các người đẹp dần dà rơi rớt trong trí nhớ của hắn. Trái lại Túc chẳng bao giờ quên và bỏ rơi bất cứ thằng bạn nào dù bọn chúng khốn khổ hay thành công. Hắn ưu tiên dành thời giờ rộng rãi cho chúng bạn với khẩu hiệu trung thành “có lộc cùng hưởng, có tội đừng dong”.

                      Lộc đâu chẳng thấy cùng hưởng, mà chỉ có chia ly đau thương. Chỉ nửa năm đại học, ba mẹ Túc chạy chọt đưa hắn sang Mỹ du học, thật ra để trốn quân dịch. Lúc ra đi, chỉ có vài đứa bạn đưa tiễn hắn đến tận phi trường Tân Sân Nhất. Hắn bật cười hóa khóc khi bịn rịn nhắc nhở đến kỷ niệm xa xưa. Vài năm sau biến cố đau thương xảy ra ở miền Nam, Ba Túc bị sạt nghiệp sau vụ đánh tư bản mại sản. Mẹ hắn kiệt quệ mất sớm lúc năm mươi tuổi. Gia đình hắn dọn về thành phố khác để sinh sống. Hai đứa em gái bị khùng điên, thằng em út thì hoang đàng nghiện ngập, còn lại các em khác đứa nên đứa không. Ngay cả bạn bè cũng gián đoạn liên lạc nhau trong ly tan của đất nước.

                      Bao nhiêu năm qua, sau khi tốt nghiệp kỹ sư cơ khí ở Mỹ, Túc vất vả làm việc ngày đêm để gửi tiền về phụ giúp gia đình. Hắn quên bẵng cái hạnh phúc bản thân, chỉ nghĩ tới cái sinh tồn của các em ở quê nhà và người cha già yếu. Ở lứa tuổi bốn mươi hắn chưa bao giờ dám nghĩ việc gầy dựng hạnh phúc gia đình cho riêng mình. Cho đến ngày hắn chứng diện đời sống gia đình êm ấm nhẹ nhàng của các bạn bè định cư ở Mỹ. Nhất là Túc được hội ngộ người bạn gái đáng thương đã dang dở một lần là Loan.

                      Bạn bè luôn nhắc nhở, ngưỡng mộ Túc như là thần tượng của phong độ hào hoa, của trai trẻ lãng mạn. Dẫu mặc cảm tật nguyền, nhưng hắn luôn mang những nguồn vui đến mọi người xung quanh. Hạnh phúc của Túc là những gì do trời phú, do phước đức, do phận đời đẩy đưa. Niềm vui của Túc rất thực trong đời sống, rất mộc mạc thủy chung trong tình bạn. Đến lúc mất nhau, bạn bè hiểu hạnh phúc của Túc là những gì rất tầm thường nhỏ bé. Hạnh phúc đó phù du bềnh bồng tan biến như mây trôi, không bao giờ tồn tại vĩnh viễn. Vết thương mặc cảm “cu to” đã trở thành một khối ung thư, mang đi theo cả cuộc đời của hắn.

                      … Đến khi người vợ - Loan dắt đứa con trai kháu khỉnh về thăm gia đình. Người cha già đau đớn ngỡ ngàng vì thiếu hình bóng thằng con đầu lòng thân yêu. Hình ảnh đó giờ chỉ còn cô đọng lại trong đứa cháu tuấn tú bảnh trai giống hệt Túc. Cho tới giờ phút cuối, Túc vẫn không thoát một định mệnh đã dành sẵn từ lúc mới ra đời.


                      Comment

                      Working...
                      X